ZingTruyen.Xyz

《Dưỡng Quân》- Taegyu

Chương 38: Gặp lại cố nhân

Stella_sj0205_

Tần Trung cách kinh đô Đại Khương độ chừng năm, sáu ngày đường nếu đi liên tục không nghỉ. Sáng sớm hôm sau, khi trời còn chưa hửng hẳn, sương sớm còn giăng bạc cả đầu hiên ngõ, Khương lão phu nhân và Thôi Phạm Khuê đã rời phủ.

Cửa lớn mở ra, gió lạnh đầu buổi cuốn nhẹ qua, mang theo hương trầm thoảng từ trong viện, phảng phất như khói sương tan loãng. Đứng chờ bên ngoài là Cố Tử Dật, vận trường sam gọn gàng, thần sắc trầm ổn, khí độ bất phàm. Phía sau hắn, hai hàng hộ vệ chỉnh tề xếp hàng, vũ trang đầy đủ, ước chừng hơn trăm người. Ánh thép từ giáo mác, binh khí phản chiếu mờ trong ánh sáng mỏng đầu ngày, khiến người ta không dám coi thường.

Tuy không thể đích thân đưa tiễn vì đang gánh trách nhiệm trấn thủ Trường An, nhưng Cố Tử Dật đã cẩn thận chọn lựa những binh sĩ tinh nhuệ nhất trong doanh, kèm theo vài vị tướng lĩnh kinh nghiệm dày dặn, đích thân giao phó bảo vệ chuyến đi. Những người hắn chọn không chỉ trung thành tuyệt đối, mà còn dày dạn sa trường, một khi ra tay có thể trấn áp trăm người, hộ tống không hề lơi lỏng.

Khi thấy Khương lão phu nhân và Thôi Phạm Khuê từ trong phủ đi ra, Cố Tử Dật lập tức tiến lên nghênh đón, đỡ bà từ bậc đá xuống thềm.

Ngoài cửa lớn, đã có bốn cỗ xe ngựa chờ sẵn. Chiếc đi đầu rõ ràng không phải xe thường. Đỉnh xe đúc đồng thau sáng bóng, bên trên khảm bạch ngọc chạm khắc vân mây, mui phủ lụa đỏ, viền gấm thêu họa tiết song long triều nhật. Nội thất lót gấm Tô Châu thêu lan điểu, hương gỗ trầm ngào ngạt, hai bên mở bốn cửa sổ, hai cửa thông gió, hai cửa ngắm cảnh, cả bốn góc đều buông rèm châu ngọc mịn nhẹ, lung linh lay động theo gió sớm. Một chiếc xe đúng nghĩa dùng cho phu nhân quý tộc hành trình xa xứ.

Khương lão phu nhân liếc mắt một cái liền nhận ra, nhíu mày, cười lắc đầu, giọng vừa trách vừa thương: “Bảo cháu chuẩn bị xe là để tiện đường đi lại, sao lại mang loại xe này đến? Xa xỉ quá mức rồi.”

Cố Tử Dật nghiêng người, giọng ôn hòa mà vẫn mang theo vẻ bất động như núi: “Với thân phận tôn quý của ngoại tổ mẫu, sao có thể gọi là xa xỉ? Quan lớn quý nhân ở Trường An phần nhiều đều dùng những cỗ xe như thế, tổ mẫu ngồi vào, chính là hợp lẽ trời đất. Huống hồ phải đi mấy ngày đường, cháu lo người tuổi cao sức yếu, ngồi xe thô kệch sẽ mỏi mệt, nên mới chọn loại xe tốt nhất, không dám sơ suất.”

Khương lão phu nhân nghe xong, híp mắt cười, nếp nhăn bên đuôi mắt giãn ra trong nắng sớm dịu nhẹ.

“Miệng lưỡi cháu đúng là khéo như bôi mật,” bà nhẹ nhàng vuốt tay áo, “Thôi thì xe cũng đã chuẩn bị rồi, bà lão như ta cũng không thể khăng khăng từ chối. Vừa hay có đệ muội cháu đi cùng, thân thể nó mảnh mai yếu ớt, xe ngựa thoải mái mới là điều cần thiết. Cháu đã chu đáo đến mức này, bà lão cũng không đành phụ lòng.”

Nói rồi, bà đưa tay cho Cố Tử Dật dìu, từng bước chậm rãi mà vững vàng tiến lên bậc xe, thân thể già nua mà vẫn mang theo phong thái mẫu nghi.

Cố Tử Dật đỡ bà lên xong thì lui về phía sau hai bước, không vội quay đi mà dừng ánh mắt nơi Thôi Phạm Khuê, trên môi điểm nụ cười nhàn nhạt, mơ hồ khó lường. Hắn giơ tay về phía xe, nói bằng giọng lễ độ:

“Đệ muội, mời lên xe.”

Thôi Phạm Khuê chầm chậm gật đầu, y kéo nhẹ vạt váy, vú già bên cạnh cũng đã giơ tay đỡ lấy khuỷu tay y. Mặt đất ẩm vì sương đêm, bệ đỡ xe lại lát gỗ bóng, dù đã quen bước đi kiêu kỳ từ nhỏ, nhưng mũi giày thêu của y vừa chạm lên mép sàn thì lập tức trượt nhẹ một cái. Cả người hơi nghiêng về phía trước.

Khoảnh khắc ấy thoáng qua như một làn khói, nhưng thân hình y vẫn không rơi xuống.

Một cánh tay vững chãi đã kịp thời vòng ra từ phía sau, nhẹ nhàng đỡ lấy lưng y, động tác vừa vững vàng vừa kín đáo, không mạnh mẽ mà cũng không chậm trễ. Thôi Phạm Khuê còn chưa kịp hoàn hồn, một mùi hương nhàn nhạt lướt qua chóp mũi, lạnh nhạt và sắc bén như mùi kim loại sau cơn mưa đầu xuân.

“Đệ muội cẩn thận.”

Thanh âm kia vang lên rất khẽ, dường như không chỉ là một lời nhắc, mà như ẩn chứa điều gì đó khó nói thành lời.

Bàn tay ấy chỉ đặt trên lưng y trong thoáng chốc rồi lập tức thu lại. Giống như chưa từng tồn tại.

Thôi Phạm Khuê bước vội lên xe, đầu cúi thấp, gò má bị sương gió thấm lạnh nhưng lại phảng phất nóng lên. Phía sau lưng y, ánh mắt Cố Tử Dật vẫn lặng lẽ dõi theo, không hề né tránh, cũng không có ý dò xét. Chỉ lẳng lặng, như cất giấu một đoạn gió dài đang lặng thổi giữa vùng đất không tên.

Đối với người kia, thuở ban đầu y chẳng có mấy thiện cảm. Gặp hắn lần đầu đã mang theo một ấn tượng khó nói thành lời, dường như có gì đó lạnh lùng, âm u ẩn dưới vỏ bọc nhã nhặn. Về sau biết hắn là cháu ngoại Khương lão phu nhân, mang huyết mạch Tây Hạ, mặc dù từng xảy ra vài điều không đáng với Khương Thái Hiển nhưng hắn lại chưa từng có hành vi thất lễ hay lời nói vượt khuôn, Thôi Phạm Khuê cũng dần buông bỏ sự đề phòng ban sơ. Gặp nhau trong phủ vài lần, hắn luôn biểu hiện mực thước, cẩn trọng từng chút. Dù ánh mắt sâu khó lường, nhưng thái độ lại không thể bắt bẻ.

Cảm giác khó chịu từng len lỏi trong lòng y từ buổi đầu, theo tháng ngày nhạt dần, cuối cùng cũng chỉ còn lại một nét tĩnh lặng khó gọi tên.

Vậy mà sáng nay, giữa khung cảnh khởi hành rộn ràng, người ấy lại bất ngờ giơ tay đỡ y, tự nhiên, đúng lúc, không dư thừa mà cũng không lạnh nhạt. Thôi Phạm Khuê dù trong lòng hơi lúng túng, vẫn quay đầu lại mỉm cười rất nhẹ.

Một tiếng "cảm ơn" không nói thành lời, ánh mắt như vẽ một nét hờ hững giữa hai người.

Sau đó y cúi đầu bước hẳn vào trong xe ngựa, ngồi xuống bên cạnh Khương lão phu nhân, ánh rèm lay nhẹ, che khuất ánh mắt không rõ tâm tình kia của người đứng ngoài.

Đoàn người chuẩn bị sẵn sàng. Tôn bà bà, Hứa Ninh Khải, Tiểu Ngọc cùng đám gia nhân hộ vệ theo thứ tự lên mấy cỗ xe ngựa phía sau. Bên ngoài, ánh nắng đầu ngày xuyên qua tàng cây, phủ lên mặt đường một lớp ánh sáng dịu mềm như lụa, phản chiếu lên giáp trụ của đội vệ binh hộ tống. Hàng ngựa chỉnh tề, từng chiếc vó sắt gõ lên nền đất, phát ra tiếng vang rền rĩ đều đặn.

Đoàn xe chuyển bánh, từ từ rời khỏi cổng thành.

Cố Tử Dật không lập tức quay lại. Hắn cưỡi ngựa đi theo một đoạn dài, đưa tiễn đoàn xe ra khỏi thành, men theo con đường quan đạo giữa núi đồi xanh thẫm, đi tới tận mấy chục dặm mới dừng lại.

Khương lão phu nhân vén màn xe, gọi vọng ra, bảo hắn quay về.

Cố Tử Dật nhìn theo bóng xe ngựa đang dần khuất xa trong sương mỏng đầu ngày, chắp tay khom người, không nói gì, chỉ gật đầu. Trong giây lát, ánh mắt hắn rơi vào một góc rèm xe vừa mới khép lại. Tựa như trầm ngâm, lại như đang tính toán một điều gì đó sâu xa hơn.

Rồi hắn quay đầu ngựa, không vội vã thúc roi, mà đi thong thả trên đường trở lại Trường An, dáng lưng thẳng tắp, chẳng để lộ lấy một chút tâm tư.

Trên đường quay về, Cố Tử Dật không nhịn được nắm bàn tay vừa mới chạm vào thắt eo của y. Mặc dù đây không phải là lần đầu Cố Tử Dật làm thế nhưng trong lòng hắn vẫn len lỏi một thứ gì đó rất mơ hồ.



___________



Việc Khương lão phu nhân không ngại đường xa đến Tần Trung là vì mẫu phi của Trần Trung vương hiện nay – Tô thị – từng là bằng hữu tâm giao của bà cùng với tổ mẫu của Thôi Phạm Khuê. Một thời các bà từng là khuê nữ cùng lớn lên trong đại gia tộc ở kinh thành, học văn thư, thêu hoa, luận thơ bàn cầm, quan hệ thâm giao như tỷ muội ruột. Sau này mỗi người một phương, có kẻ vào cung làm phi, có người xuất giá gả vào vọng tộc, song mối thâm tình ấy vẫn vững như đá tảng giữa dòng đời biến chuyển.

Những năm gần đây, tuổi tác đè nặng lên lưng bà, mỗi bước đi đều có vú già dìu đỡ. Tô thị cũng bệnh nặng lâu ngày, sức đã suy mòn. Tin báo tới từ Tần Trung nói bà ấy có thể không qua khỏi trong mấy ngày tới. Đêm đó, Khương lão phu nhân ngồi lặng trong tiểu sương phòng suốt canh hai, không chợp mắt. Đèn dầu lay lắt trên bàn, ánh lửa hắt bóng bà lên vách gỗ, tấm lưng gầy gò ấy, như thể mang theo cả những hồi ức đã hoá tro tàn.

"Y chi bằng tân, nhân chi bằng cố."

Bà lặng lẽ lẩm nhẩm câu ấy, tay khẽ run khi chạm vào tấm thư tay được gửi từ ngàn dặm. Người xưa tình cũ, giờ đang dần lùi vào bóng tối. Dẫu đường xá hiểm trở, bà vẫn muốn đến tiễn một đoạn cuối cùng.

Xe ngựa chầm chậm lăn bánh trên đường mòn hun hút, cảnh vật bên ngoài dần từ trấn thị phồn hoa đến vùng rừng núi thưa vắng. Khương lão phu nhân vén rèm xe, nhìn cảnh tượng tiêu điều, lòng như trùng xuống. Lòng người đã thay, thế sự cũng đổi. Bà buông một tiếng thở dài, mỏng manh như tro bụi cuốn trong gió.

Mấy ngày sau, đoàn người đến Giang Tây, vùng tiếp giáp phía nam của Trần Trung quốc.

Tần Trung vốn là vùng đất do họ Trần trấn giữ từ cuối thời Tiền Khương, sau khi họ nội của Trần Trung vương đời đầu công lao hiển hách, được phong đất nơi này để phòng giữ Nam lộ. Ban đầu chỉ là một vùng chư hầu nhỏ nương bóng Đại Khương, nhưng nhờ thiên hiểm sông núi, lại khéo giao hảo, dần dà thành một thế lực đủ sức giữ một cõi. Tuy vẫn xưng là “Trung quốc”, tôn xưng Đại Khương là thiên triều, nhưng thực quyền trong nội địa gần như độc lập.

Kinh đô của Tần Trung đặt ở Đàm Châu, đất đai trù phú, có núi có sông, lại khéo trị thuỷ dẫn ruộng, hàng năm lúa gạo dồi dào. Đường từ Giang Tây đi Đàm Châu mất thêm hai ngày đường, dọc đường binh tướng Tần Trung đã ra nghênh tiếp từ ngoài trấn Tam Hạp, vừa nghe danh Khương lão phu nhân đã đến, lập tức phái quân đi hộ tống, cờ phướn lộng lẫy, khí thế trang nghiêm.

Đàm Châu hiện do Trần Trung vương – Trần Kỳ Duệ – chấp chính. Người này tuy còn trẻ nhưng rất có chủ kiến, tính cách thâm trầm, từ khi kế vị đã chỉnh đốn nội chính, củng cố binh quyền, lặng lẽ đối phó các thế lực xung quanh. Nhưng dù quyền thế cỡ nào, khi nghe mẫu phi bệnh tình nguy kịch, hắn cũng gác lại triều sự, túc trực trong cung. Tô thị tuy xuất thân không cao, nhưng nhờ tài đức được tiên vương sủng ái một đời. Những năm cuối đời, dù bệnh nặng nằm liệt giường, nhưng danh vọng vẫn còn. Bà là một trong những dấu tích cuối cùng của thế hệ cũ ở vùng đất mới này.

Khương lão phu nhân ngồi trong xe ngựa, lòng như chùng xuống mỗi lần nhìn mây bay che lấp đỉnh núi phía xa. Thôi Phạm Khuê bên cạnh không dám nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi yên, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn bà. Y có thể cảm nhận rõ rằng, chuyến đi này không chỉ là hành trình tiễn biệt một cố nhân, mà còn như một chuyến trở về - trở về với những năm tháng xưa cũ, khi lòng người còn chưa vì thời cuộc mà lạnh đi, khi những tình nghĩa chân thành chưa bị thời gian mài mòn thành lớp bụi mờ trong tâm khảm.

Bầu không khí trong xe như đặc quánh lại theo từng dặm đường.

Khương lão phu nhân khép mắt lại, như đang mơ một giấc mộng đã xa xăm từ nhiều năm về trước.

Cửa nam thành Đàm Châu vừa hiện ra nơi cuối con đường lát đá, trời đã ngả hoàng hôn. Ánh nắng cuối ngày quét một lớp vàng sậm lên mái ngói lưu ly, cổng thành sừng sững giữa ráng chiều như một khung tranh được họa sĩ già nào đó vô tình để tay chạm nét tàn.

Khương lão phu nhân vừa vén rèm xe nhìn ra, liền thấy phía trước có một đoàn người đang chờ sẵn.

Cờ hiệu thêu chữ “Trung” theo thể khải lớn bay phấp phới trong gió, bên dưới là hàng quân trang chỉnh tề, đứng im như tượng. Giữa hàng ấy, một nam tử trẻ tuổi khoác trường bào tím thẫm, đầu đội kim quan, thắt lưng đeo ngọc, thân hình cao lớn, mặt mày tuấn tú, đôi mắt đen thẳm hiện lên vẻ nghiêm cẩn – chính là Trần Kỳ Duệ, đương kim Trung vương của Tần Trung.

Hắn đích thân dẫn theo vài vị đại thần đến tận cửa nam nghênh giá.

Thấy đoàn xe từ xa tiến lại, Trần Kỳ Duệ liền bước lên trước hai bước, cúi người hành đại lễ: “Trung vương thất lễ. Cung nghênh Khương lão phu nhân đại giá quang lâm. Đất Đàm Châu ba năm liền không có tuyết, nay ráng chiều đỏ thẫm, e là cũng vì tổ mẫu đến mà thiên ý tỏ điềm lành.”

Khương lão phu nhân trong xe ngựa bật cười, bảo Tôn bà bà đỡ xuống. Vừa đặt chân chạm đất, bà đã chắp tay đáp lễ: “Trung vương không cần đa lễ. Ngươi là quân vương một phương, lão thân lại là kẻ già lụm khụm, chẳng đáng để nghênh đón đến vậy.”

Trần Kỳ Duệ bước tới, hơi khom người đỡ bà một tay, mỉm cười nói: “Thái mẫu ta luôn nhắc tới tổ mẫu là người có khí độ hơn người, ta làm hậu sinh, sao dám vô lễ. Lại nói, tổ mẫu đến lần này, không chỉ là cố nhân gặp nhau, mà còn là ân điển đối với Tần Trung.”

Thôi Phạm Khuê lúc này cũng xuống xe. Ánh mắt Trần Kỳ Duệ dừng lại một thoáng, hắn nhìn y từ đầu đến chân, rồi lễ độ nói: “Vị này chắc là Quân hầu phu nhân. Từ lâu đã nghe danh phu nhân, nay được diện kiến, quả thật thanh tú như tranh.”

Thôi Phạm Khuê cúi đầu: “Không dám nhận lời khen của Trung vương.”

Khương lão phu nhân cười cười, nói xen vào: “Tính nết nàng ấy hơi trầm, Trung vương đừng dọa nó.”

Trần Kỳ Duệ mỉm cười, không nói thêm gì nữa, đưa tay mời: “Đường xa mỏi mệt, trong thành đã chuẩn bị phủ đệ sạch sẽ, mời tổ mẫu và phu nhân vào nghỉ trước. Thái mẫu đang chờ trong cung trong, biết người đến chắc sẽ rất vui.”

Đoàn người tiếp tục tiến vào thành. Trên đường, dân chúng hai bên xúm lại xem, không ai dám lớn tiếng, chỉ dám thì thào: “Nghe nói là lão phu nhân Khương phủ đến”, “Là đại thân thích của người Đại Khương”, “Người kia là ai, sao dung mạo thanh tú như vậy?”

Thôi Phạm Khuê nghe được những lời bàn tán, sắc mặt không biến đổi, chỉ cúi đầu đi sát bên Khương lão phu nhân. Trần Kỳ Duệ thỉnh thoảng nghiêng đầu trò chuyện với bà, còn ánh mắt thì như vô tình, cứ đôi lần dừng lại trên người y.

Vào đến phủ tiếp giá – vốn là vương phủ cũ của phu nhân Trần Kỳ Duệ lúc sinh thời – đèn đuốc đã thắp sáng, rèm lụa lay động trong gió sẩm chiều. Các ma ma, cung nữ đều cung kính hành lễ, dẫn người vào an vị.

Khương lão phu nhân còn chưa ngồi ấm chỗ, liền nói: “Không cần khách sáo. Ta muốn gặp Tô thị trước.”

Trần Kỳ Duệ thu nghiêm thần sắc, gật đầu.

“Thái mẫu đã được đưa sang biệt viện bên hồ, khí trời hôm nay êm dịu, ta cũng muốn bà được yên tĩnh. Ta cho người báo tin, tổ mẫu cứ nghỉ ngơi một chút, tối nay ta sẽ đích thân đưa người sang.”

Bà trầm mặc một lát, rồi nhẹ nhàng gật đầu.

Vào đến phủ tiếp giá, trời đã sẩm tối. Ánh đèn dầu lặng lẽ soi bóng những cột trụ gỗ đỏ sẫm, rèm gấm lay động trong làn gió đầu hạ. Tần Trung vương phủ vốn là nơi Tô thị từng ở, sau được tu sửa lại thành biệt phủ dùng để đón tiếp quý khách phương xa.

Vừa bước qua cổng chính, Khương lão phu nhân liền dừng chân.

Mấy hôm nay nghe tin Tô thị bệnh tình nguy kịch, tổ mẫu của Thôi Phạm Khuê cũng từ Vĩnh Châu vượt đường xa tới đây.

Khương lão phu nhân và Thôi Phạm Khuê vừa bước vào sân trong, đã thấy một vị lão phu nhân mặc áo vải màu sương khói, đứng chờ bên bậc thềm. Tuy tuổi đã cao, vóc dáng gầy yếu, nhưng vẫn giữ được khí chất ung dung quý phái. Gương mặt kia, tuy đã in hằn năm tháng, nhưng đường nét phảng phất rõ ràng là tổ mẫu của y.

Bà nhìn thấy hai bà cháu từ xa, ánh mắt thoáng động, bước tới đỡ tay Khương lão phu nhân, giọng khàn khàn mà xúc động:

“Tỷ thật sự tới rồi…”

Khương lão phu nhân siết tay bà: “Cố nhân một đời, sao ta không đến? Còn có Phạm Khuê, ta đưa nó theo. Lâu rồi rồi hai người chưa gặp mặt.”

Thôi Phạm Khuê bước tới, cung kính quỳ xuống hành lễ: “Tổ mẫu.”

Người lão phu nhân ấy gật đầu, nhìn y thật lâu, đáy mắt như nổi lên một làn sương mờ.

"Từ sau khi con được gả đi, đây là lần đầu ta gặp lại con."

Bà cúi xuống, đưa tay vuốt nhẹ má y. Lòng bàn tay gầy guộc, run rẩy nhưng dịu dàng.

Khương lão phu nhân nhìn hai bà cháu, thở dài: “Chúng ta đều là người sắp đi về phía cuối con đường rồi, nhưng vẫn may mắn còn có thể tụ mặt. Hôm nay là vì Tô thị. Nếu chẳng phải bà ấy bệnh tình nguy kịch, e là chúng ta không còn dịp hội ngộ thế này.”

Ba người cùng bước vào hành lang đá, đi sâu vào phía trong. Ánh đèn sáng lên giữa sắc trời mờ nhạt, mùi thuốc Đông y nhè nhẹ phảng phất trong gió. Phía trước, tỳ nữ hầu hạ trong viện đã quỳ chờ hai bên, thấy các vị trưởng bối tới liền hành lễ.

Một tiểu nha đầu từ trong chạy ra, cúi đầu bẩm: “Lão phu nhân tỉnh rồi, vừa mới hỏi...người đã đến chưa.”

Khương lão phu nhân nghe vậy liền bước nhanh hơn, tay vẫn nắm tay tổ mẫu Thôi Phạm Khuê, giọng bà dịu đi: “Đi thôi. Bà ấy còn tỉnh được là còn một hơi duyên. Ta và bà cùng gặp lại bạn cũ.”

Thôi Phạm Khuê lặng lẽ đi theo sau. Gió cuối xuân thổi nhẹ qua mái hiên, làm lay động rèm châu treo trước cửa phòng. Trong căn viện này, những người đàn bà từng cùng nhau trải qua cả một thời triều chính rực rỡ và gian nan, giờ đây lại tụ hội bên nhau lần cuối. Mang theo một lớp nghĩa tình đã vắt ngang ba đời, nối lại những sợi tơ tình cảm tưởng chừng đã nhạt theo năm tháng.

Tô thị trạc tuổi Khương lão phu nhân, nay đã ở tuổi xế chiều. Bà nằm yên trên giường bệnh, thân thể gầy guộc, làn da nhợt nhạt như lớp giấy mỏng dưới ánh đèn mờ. Hơi thở phập phồng, mắt đục mờ, thần trí mông lung, dường như đã chẳng còn phân biệt được thực và hư, người và bóng.

Khương lão phu nhân ngồi bên giường, chậm rãi nắm lấy bàn tay lạnh giá của người bạn cũ. Đôi tay từng mềm mại thêu thùa năm xưa, giờ chỉ còn là những đốt xương khô gầy guộc. Bà siết nhẹ, bàn tay kia run run vuốt lấy mu bàn tay Tô thị như đang tìm lại chút hơi ấm cuối cùng của một đoạn đời xưa cũ.

Tô thị không đáp, ánh mắt trôi dạt giữa không trung. Không còn một tia sáng nhận biết, không còn phản ứng nào dù nhỏ nhất. Cảm giác ấy không hẳn là cái chết, mà là một trạng thái lặng câm khiến người ta không dám khóc cũng không dám nói như thể chỉ cần lên tiếng là sẽ đánh thức một điều gì đó đã ngủ yên mãi mãi.

Thôi lão phu nhân đứng bên cạnh, trong mắt nhuốm màu tang thương. Tóc đã bạc trắng từ lâu, nhưng lúc này lại thêm mấy phần tiều tụy. Bà nhìn người bạn cũ đang nằm đó, rồi nhìn sang Khương lão phu nhân đang cố kìm nước mắt, trong lòng như có một nhát dao cắt qua lặng lẽ. Bao nhiêu năm gió bụi, cùng nhau đi qua thiếu thời, trung niên, giờ chỉ còn một lần cuối để ngồi cạnh nhau như thế này, không cần lời, cũng không cần nhận ra nhau.

Phía sau, Trần Kỳ Duệ cúi đầu, trầm mặc. Dưới hàng mày rậm là đôi mắt đỏ hoe, dấu vết của một đêm không ngủ. Hắn không nói gì, chỉ lặng lẽ đứng bên, để mặc không gian thấm đầy nỗi chia lìa.

Căn phòng tĩnh mịch như ngưng đọng, chỉ còn tiếng gió khẽ luồn qua lớp mành trúc, lay nhẹ ngọn đèn dầu hắt bóng ba người xuống nền đất gạch. Ánh tà dương bên ngoài buông chậm, vầng sáng nhạt màu, như những mảnh hồi ức cũ rơi rụng qua từng phút giây.

Không một lời nào cất lên. Mọi điều cần nói đều đã nằm lại trong ánh nhìn, trong bàn tay nắm chặt, và trong sự hiện diện đơn độc giữa lúc sinh tử giao thoa.

Khương lão phu nhân và Thôi lão phu nhân cùng ngồi bên giường bệnh, mỗi người nắm lấy một tay Tô thị, bàn tay đã lạnh và mất dần sinh khí, nhưng vẫn khiến người ta lưu luyến không rời.

Căn phòng vắng lặng, chỉ có tiếng gió bên ngoài lướt qua cành cây khô cỗi. Hai người phụ nhân tóc bạc đối diện một người bạn cũ đang dần rời xa trần thế, lòng dâng lên biết bao kỷ niệm đã vùi sâu theo năm tháng. Không cần nhắc nhau, họ vẫn như hiểu ngầm, từng câu từng chuyện cũ cứ thế tuôn ra. Những ngày cùng nhau lớn lên trong khuê phòng, những mùa hoa nở đầy ngõ nhỏ, những lần rủ nhau lén đi chơi, vụng trộm thoa phấn tô son, những mối tình đầu chưa kịp thành lời đã theo thời cuộc mà tan biến.

Dù đã nhiều năm không gặp, ký ức vẫn nguyên vẹn như cũ. Cả hai chậm rãi kể lại, giọng nói đều đều, không vội vã, như thể sợ làm đau một điều gì đang ngủ yên trong ký ức. Có đoạn ngắt quãng, một người quên, người kia liền nhớ thay, rồi cả hai cùng bật cười khe khẽ. Nụ cười ấy vừa ấm áp vừa cay đắng, như một thứ ánh sáng cuối ngày le lói soi lại đời người.

Thôi Phạm Khuê ngồi ở góc phòng, lặng lẽ nhìn ba người phụ nhân, một người nằm lặng, hai người chậm rãi kể. Y chưa từng thấy tổ mẫu của mình rạng rỡ như thế. Ánh nhìn mềm mỏng, khóe môi khẽ cong, bàn tay không còn run khi đặt lên mu bàn tay của Tô thị. Dưới ánh chiều tà, hình bóng họ giống như ba ngọn nến sắp cạn, lại cùng soi sáng nhau lần cuối.

Khương lão phu nhân và Thôi lão phu nhân cứ ngồi như thế, kể mãi, kể mãi, đến khi mặt trời khuất hẳn phía chân trời, ánh sáng trong phòng dần chuyển thành mảng tối dịu dàng. Khi rời khỏi phòng, bước chân Khương lão phu nhân hơi chậm lại, viền mắt hoe đỏ. Bên cạnh, Thôi lão phu nhân lặng lẽ đưa tay lên áo, như lau đi chút gì đó vừa rơi xuống. Không ai khóc, nhưng bóng dáng họ in trên nền đất dài và trĩu nặng.

Khi Khương lão phu nhân và Thôi lão phu nhân từ trong phòng bước ra, hoàng hôn đã buông xuống, phủ lên mọi thứ một lớp sắc vàng trầm mặc. Bên ngoài, Trần Kỳ Duệ đã chờ sẵn, thân mặc quan bào thêu mây tím, thái độ cung kính mà không mất vẻ thân tình. Ánh mắt ông lướt qua hai người phụ nhân đã có tuổi, thoáng một tia chua xót, rồi mau chóng thu lại, chỉ còn lại sự ôn hòa.

Không cần nhiều lời, Trần Kỳ Duệ mời hai người cùng y đến tiền điện dự một yến tiệc nhỏ. Là tiệc do ông đích thân chuẩn bị, không phô trương, không khách sáo, chỉ mong dùng một chút rượu ấm và thức ăn ngon tiễn biệt người đang dần rời xa thế gian.

Con đường từ nội viện đến chính điện lát đá xanh, hai bên là rặng du đã rụng gần hết lá, chỉ còn trơ cành khẳng khiu. Khương lão phu nhân và Thôi lão phu nhân sóng bước, dáng đi tuy chậm nhưng không ai dựa vào ai, như thể vẫn muốn giữ lại chút tự tôn cuối cùng cho thời thanh xuân từng rực rỡ. Phía sau, Thôi Phạm Khuê lặng lẽ đi theo, không xen vào cuộc trầm ngâm của hai người già, chỉ thi thoảng ngẩng đầu nhìn bầu trời đang dần chuyển sang tím sẫm.

Chính điện đã thắp đèn. Lồng đèn treo cao bằng lụa trắng thêu hoa mơ, ánh nến dịu nhẹ soi lên vách gỗ đen mun, phản chiếu bóng người đổ dài trên nền gạch cũ. Bàn tiệc chỉ bày ba bộ bát đũa, một bình rượu sứ trắng và vài món đơn sơ mà tinh tế: canh hạnh nhân non, cá hấp quế, đậu hũ thanh tuyền… tất cả đều là món Tô thị từng thích khi còn trẻ. Mỗi món đều được sắp xếp cẩn thận, như thể thay lời vĩnh biệt.

Trần Kỳ Duệ mời hai vị trưởng bối an tọa, tự mình rót rượu, nâng chén thay cho vạn lời khó nói. Khương lão phu nhân và Thôi lão phu nhân không từ chối. Bàn tay cầm chén có chút run, nhưng ánh mắt thì yên tĩnh lạ thường. Bữa tiệc diễn ra trong lặng lẽ. Không ai cười lớn, không ai chúc tụng, chỉ có tiếng chén va nhẹ, mùi rượu thoảng trong gió lạnh, cùng những hồi ức như mạch nước ngầm chảy xiết trong lòng mỗi người.

Và ở nơi góc điện, Thôi Phạm Khuê lần đầu chứng kiến sự tĩnh lặng trang nghiêm của một buổi tiệc tiễn biệt. Không có nước mắt, không có tiếng khóc, chỉ có sự thanh thản đến lạnh lòng.

Dưới ánh đèn mờ, bóng Khương lão phu nhân in lên vách gỗ, kéo dài mảnh mai, phảng phất như sắp tan vào màn đêm. Bà ngồi yên trên ghế, lưng hơi còng, đôi tay đặt nhẹ lên đùi, chẳng nói chẳng rằng. Ánh mắt dõi vào khoảng không trước mặt, nhưng rõ ràng tâm trí đã trôi về một nơi khác – nơi mà những ký ức xa xưa, những lời chưa kịp nói, và cả những người đã không thể trở về, đang âm thầm kéo bà lại.

Thôi Phạm Khuê ngồi bên cạnh, không lên tiếng. Trong lòng y vẫn còn dư vang buổi chiều hôm nay – ánh mắt đờ đẫn của Tô thị, giọng kể nhẹ nhàng của Khương lão phu nhân, và bữa tiệc lặng lẽ phủ đầy kỷ niệm. Khoảnh khắc đó, như lớp tro mỏng phủ lên một trái tim từng rực lửa, bỗng khiến y thấy nghẹn ngào.

Chung bà bà bước vào, trong tay cầm áo khoác lót tơ để bà thay, nhẹ nhàng khuyên bà nghỉ ngơi. Nhưng Khương lão phu nhân vẫn ngồi im, không có động tác gì, như thể chẳng nghe thấy.

Thôi Phạm Khuê nhìn bà, chợt cảm thấy sống mũi cay cay. Mấy ngày nay đi đường xa, Khương lão phu nhân không hề kêu mệt, nay lại còn phải ứng đối đủ mặt khách quen xưa cũ, hẳn là đã rất hao tâm tổn trí. Y đang định mở lời khuyên bà đi nghỉ sớm, thì thấy Khương lão phu nhân quay sang nhìn y.

Bà mỉm cười, giọng nói khẽ khàng, rất chậm, như thể vừa từ cõi nhớ nhung trở về.

"Ban ngày ta nói mấy chuyện linh tinh với Tô thị, làm cháu chê cười rồi. Giờ lớn tuổi lại nhớ về hồi trẻ. Chớp mắt mà tóc đã bạc, chuyện xưa cứ như giấc mộng. Cháu đừng lo cho ta nữa, cháu và tổ mẫu lâu ngày không gặp. Cháu nên đến thăm bà ấy đi, ở đây có Tôn bà bà lo rồi."

Một sự thấu hiểu lặng lẽ giữa người già và người trẻ, giữa những kẻ từng đi qua mất mát và kẻ đang dần hiểu thế nào là ràng buộc. Thôi Phạm Khuê gật đầu. Y đứng dậy, không quấy rầy thêm, lặng lẽ lui ra ngoài.

Thôi Phạm Khuê rời khỏi viện của Khương lão phu nhân, dọc theo hành lang dài vắng vẻ, gió đêm thổi qua từng chấn song khiến những chiếc đèn lồng nhỏ khẽ đung đưa, ánh sáng ngả nghiêng, phản chiếu lên hành lang đá những mảng sáng tối lay động như sóng nước.

Gian phòng của tổ mẫu y được an trí ở một góc yên tĩnh trong hậu viện, cách biệt với tiếng ồn, cây cối um tùm, vườn hoa thấp thoáng hương quế. Đến gần, y thấy ánh đèn vẫn còn sáng. Người hầu trực ngoài cửa hành lễ, thấy y liền nhẹ nhàng đẩy cửa mời vào.

Bên trong, tổ mẫu y đang ngồi dựa vào đầu giường, một tay cầm lược ngà chải tóc bạc, ánh mắt dõi theo ngọn đèn chập chờn như đang xuất thần. Thấy cháu đến, bà liền mỉm cười, nhẹ giọng gọi y lại gần.

Thôi Phạm Khuê bước vào, quỳ xuống bên giường, nắm lấy bàn tay khô gầy của bà. Đã lâu không gặp, dù được người trong phủ báo tin vẫn thường xuyên, nhưng cảm giác thật sự được nhìn thấy người thân ngay trước mắt khiến y thoáng xúc động. Những nếp nhăn trên khuôn mặt tổ mẫu như khắc đầy năm tháng, nhưng ánh mắt vẫn minh tường, thong thả, ấm áp như thuở nào.

Tổ mẫu y lấy chiếc khăn tay bằng vải gấm chấm nhẹ trán y, bảo dạo này gầy đi nhiều, nước da cũng xanh xao hơn trước. Rồi bà kể sơ lược những chuyện ở nhà, ai bệnh ai khỏe, năm nay gió mùa đến muộn, vườn sau đã trồng thêm cây thạch lựu, đến Tết là vừa nở hoa đỏ rực. Câu chuyện từ nhỏ đến lớn, từ quá khứ đến hiện tại, không có gì quá quan trọng, nhưng từng lời từng chữ lại như dòng nước mát lành đổ vào lòng y giữa những ngày đầy lo toan.

Thôi Phạm Khuê không nói nhiều, chỉ lặng lẽ lắng nghe. Lúc sau, tổ mẫu y nhắc đến Tô thị, giọng nói hơi trầm xuống. Ánh mắt bà hướng ra cửa sổ, nơi vầng trăng đang treo lơ lửng trên bầu trời khuya, ánh sáng mờ bạc chiếu xuống mái ngói cũ kỹ, phản chiếu sự tịch mịch không lời.

Trong khoảnh khắc ấy, Thôi Phạm Khuê cảm thấy khoảng cách giữa ba thế hệ - bản thân, tổ mẫu, và Khương lão phu nhân - được kết nối bởi cùng một dòng chảy: thời gian và chia ly. Những người sống lâu hơn luôn mang trong mình một kho tàng ký ức, vừa là hạnh phúc, vừa là gánh nặng. Mỗi cuộc gặp lại, là một lần tiễn đưa. Mỗi cuộc trò chuyện, là một lần ghi nhớ thêm điều sẽ mất.

"Tổ mẫu, có điều này Khuê nhi rất thắc mắc. Cho đến tận bây giờ mới có dịp hỏi người." Thôi Phạm Khuê chậm rãi lên tiếng.

"Có chuyện gì con cứ nói." Bà nhẹ giọng đáp.

"Sao tổ mẫu biết việc con sẽ sớm bị bại lộ thân phận là nam tử giả nữ nhân gả cho Khương Thái Hiển mà gửi thư cho Khương lão phu nhân vậy ạ?"  Thôi Phạm Khuê hỏi.

Tổ mẫu nhìn y một hồi, đáy mắt không lộ ra kinh ngạc, cũng chẳng có gì khác thường. Bà đặt chén trà sứ men xanh xuống bàn, hơi thở đều đặn như gió sớm, chỉ lắc đầu cười nhạt: "Ta nuôi con từ nhỏ, từ khi con mới biết đi đã biết chạy đến ôm vạt áo ta làm nũng, con nghĩ ta thật sự đoán trước được việc này à?"

Giọng bà bình thản, không mang trách cứ cũng chẳng có tự hào, chỉ là như đang kể một sự thật vốn dĩ hiển nhiên.

"Con nghĩ mình giấu được thiên hạ, nhưng con đừng quên Khương lão phu nhân cũng là kẻ già dặn như ta. Với tính cách của con, sớm muộn gì cũng bị bại lộ."

Bà ngừng một lát, ánh mắt rơi về phía cửa sổ, nơi gió thổi nhẹ qua màn, mang theo mùi cỏ ẩm và khói hương ban đêm.

"Ta biết con muốn gì, cũng biết con sẵn sàng chịu khổ đến mức nào để bảo vệ người con muốn bảo vệ. Nhưng dù con có cẩn thận đến mấy, chuyện này sớm muộn gì cũng không thể giấu được Khương gia. Nếu không phải lão phu nhân, thì cũng sẽ là người khác."

Thôi Phạm Khuê cúi đầu, lòng hỗn loạn. Hóa ra người duy nhất y nghĩ đã bị y giấu được, lại luôn biết rõ mọi chuyện.

"Vậy...tại sao người không ngăn con?" y khẽ hỏi.

Tổ mẫu nhìn y, ánh mắt không già đi theo năm tháng, vẫn sắc như gươm, nhưng lại chan chứa dịu dàng.

"Bởi vì ta biết, ngăn con không bằng giúp con có đường lui."

Bà đứng dậy, bước đến bên y, nhẹ nhàng đặt tay lên vai y: "Ta gửi thư cho Khương lão phu nhân, không phải để tố giác con, mà là để bà ấy biết, nếu một ngày thân phận con bại lộ, thì con không phải kẻ lừa dối mà là người được hậu thuẫn. Là người có một người bà già này đứng sau lưng."

Giọng bà chậm rãi, vững vàng, từng chữ như khắc vào lòng y.

"Trên đời này, người dám đi con đường đó vốn đã không nhiều. Người dám để cháu mình đi trên con đường đó, lại càng ít."

Thôi Phạm Khuê im lặng rất lâu, sau đó, y từ từ quỳ gối xuống, trán chạm đất, giọng khàn đi: "Khuê nhi... bất hiếu, lại khiến người lo lắng."

Tổ mẫu không đỡ y dậy ngay, chỉ nhìn xuống bóng lưng nhỏ gầy kia, thở dài, giọng mỏi mệt mà trìu mến: "Chỉ cần con còn sống bình an quay về, thì dù là nghịch thiên mà đi, ta cũng sẽ đi cùng con một đoạn."

Tổ mẫu đỡ Thôi Phạm Khuê dậy, tay bà vẫn chắc như cũ, nhưng hơi lạnh, như đã thấm sương đêm và tháng năm. Bà không nói thêm lời nào về chuyện vừa rồi, chỉ kéo tay y ngồi xuống chiếc đôn tròn bên cạnh, rót cho y chén trà đã nguội rồi lại thay bằng bình trà mới.

Không khí trong phòng chùng xuống, chỉ có tiếng nước chảy lách tách qua nắp ấm, khói trà nhẹ nhẹ tỏa lên, phả qua ánh đèn vàng rọi bóng hai người xuống sàn như đôi bóng cũ kỹ lặng lẽ bên nhau.

Một lúc sau, bà mới lên tiếng, giọng không cao, nhưng đủ nặng để nỗi quan tâm lắng sâu vào từng chữ: “Khương hầu…từ sau khi cưới con đến giờ, đối xử với con thế nào?”

Ánh mắt bà dõi qua y, không mang dò xét, nhưng lại sâu thẳm đến mức khiến người ta không thể giấu được điều gì.

Thôi Phạm Khuê khựng lại một chút, đầu ngón tay vô thức siết chén trà. Một cơn gió lạnh thổi qua khe cửa sổ, làm lay động chiếc rèm lụa thêu mai nơi góc phòng. Y chậm rãi đáp, giọng đều đều, cố gắng không để cảm xúc dao động quá nhiều: “Quân hầu…vẫn đối xử tốt. Không để con chịu thiệt.”

Tổ mẫu không hỏi thêm ngay, bà chỉ gật đầu chậm rãi, sau đó nhướng mắt nhìn y một lúc lâu.

“Không để con chịu thiệt,” bà lặp lại lời y, rồi hạ giọng, “là đủ sao?”

Thôi Phạm Khuê không trả lời ngay. Y nghĩ đến những ngày im lặng dài như bóng tối, nghĩ đến cái cách mà Khương Thái Hiển bảo vệ y bằng gươm đao, nhưng không bao giờ cho y lời giải thích dịu dàng. Nghĩ đến cái siết tay lúc đêm xuống, và cả những lần hai người chỉ ngồi bên nhau mà không biết phải nói gì.

Y không chắc đó là tình yêu, càng không chắc bản thân xứng đáng có tình yêu. Nhưng y biết rõ, chưa từng có ai ngoài hắn khiến y cam tâm tình nguyện đi vào con đường tối tăm ấy.

Thôi Phạm Khuê nhẹ giọng: “Con không mong được gì cao xa. Chỉ cần Quân hầu không bỏ rơi con, là đủ rồi.”

Tổ mẫu vẫn im lặng nhìn y, hồi lâu sau mới buông tiếng thở dài.

“Người khác nói câu đó là cam chịu. Nhưng con nói câu đó…là chấp nhận. Tự mình đi một đoạn đường dài, lại còn phải dặn lòng không được đòi hỏi thêm. Cũng chỉ vì yêu quá mà thôi.”

Bà đứng dậy, chắp tay sau lưng đi đến trước cửa sổ. Ngoài kia trời đã tối hẳn, xa xa có tiếng trống canh điểm giờ vọng lại từ cổng thành Tần Trung. Tổ mẫu nói: "Khương hầu là người tốt, nhưng người tốt cũng có lúc sai. Nếu hắn làm con tổn thương, con đừng sợ về đây. Tổ mẫu vẫn còn sống, thì con vẫn còn nhà để về.”

Y cụp mi mắt, khẽ “vâng” một tiếng, nhưng giọng đã run lên không nén được.

Trong phòng, ánh đèn lập lòe, mà tình thân, vẫn chưa từng phai nhạt.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz