ZingTruyen.Xyz

《Dưỡng Quân》- Taegyu

Chương 26: Kế sách

Stella_sj0205_

Khương Bảo cưỡi ngựa qua dãy núi thấp bao quanh vùng Tân Kỳ, nắng đầu hạ nghiêng nghiêng rọi xuống mặt đất loang lổ ánh sáng vàng nhạt. Từng hàng cây cau nhỏ dọc theo bờ ruộng đã bắt đầu trổ buồng, báo hiệu một mùa vụ đang tới gần. Từ xa, tiếng cuốc đất và tiếng gọi nhau của đám dân phu lẫn vào gió, hòa cùng tiếng nước chảy róc rách trong lòng kênh mới đào con kênh dẫn thủy chính vừa được khai thông tạm thời.

Chân ngựa dừng lại trước cổng nha môn huyện Tân Kỳ, nơi một vị quan huyện trung niên đang đứng chờ sẵn. Thấy Khương Bảo xuống ngựa, ông ta liền tiến lên một bước, cúi người hành lễ:

“Tham kiến Khương tướng quân. Hạ quan là Lâm Cẩn – huyện lệnh được chúa thượng cử tới phụ trách thi công công trình dẫn thủy cứu hạn. Ngài đi đường xa tới đây, thứ lỗi không nghênh đón chu đáo.”

Khương Bảo gật nhẹ đầu, ánh mắt đảo một vòng qua khu vực xung quanh, vừa đủ để nhận thấy mấy nhóm dân phu đang nghỉ trưa bên kè đá, người nào cũng sạm nắng và vương mồ hôi. Y lên tiếng:

“Không cần khách sáo. Ta được quân hầu phái tới để kiểm tra tình hình xây dựng. Công trình tiến triển đến đâu rồi?”

Lâm đại nhân khom người đáp:

“Bẩm tướng quân, tính đến hôm nay đã hoàn thành khoảng sáu phần mười. Tuy nhiên vì đất Tân Kỳ vốn nhiều đá ngầm, việc khai thông lòng kênh phải đổi hướng mấy lượt. Đội phu thợ làm việc ngày đêm, lại gặp trận mưa bất ngờ tuần trước khiến đất lở một đoạn, nên chậm mất ba ngày.”

Khương Bảo chau mày: “Có sổ ghi chép không? Đưa ta xem qua.”

Vị quan huyện lập tức dâng lên một tập sổ mỏng, bên trong ghi chép chi tiết từng khoản nhân công, số lượng đất đá đào đắp, cùng bản đồ phân khu thi công được vẽ bằng mực đen. Khương Bảo chăm chú lật xem, thỉnh thoảng gật đầu, đôi khi lại nhíu mày hỏi vài câu về việc phân bổ lương thực và tiền công.

Lâm đại nhân mồ hôi túa ra hai bên thái dương, tuy là quan lại có chức có quyền nhưng đứng trước Khương Bảo – người nổi tiếng nghiêm minh và được Khương Thái Hiển đặc biệt tín nhiệm – cũng không dám lơ là nửa phần.

“Dân trong vùng có phản ứng gì không?” Khương Bảo hỏi thêm.

“Bẩm, lúc đầu có chút xôn xao vì việc trưng dụng ruộng lúa để làm kênh, nhưng sau khi phủ ban xuống khoản hỗ trợ lúa giống và hứa đền bù, đa phần đã thuận theo. Dân chúng giờ đây đều mong kênh sớm hoàn thành để tránh mùa hạn khắc nghiệt sắp tới.”

Nghe vậy, Khương Bảo đứng thẳng dậy, ánh mắt thâm sâu liếc qua những cánh đồng khô nứt ở phía xa xa:

“Vậy thì phải làm nhanh hơn. Nghe nói năm nay đã hạn nặng, Tân Kỳ không thể để chịu cảnh tương tự. Nói với đám người phía dưới. Nếu làm xong trước hạn, triều đình sẽ ban thưởng.”

Lâm Cẩn vội cúi đầu đáp lời: “Dạ vâng, hạ quan hiểu!”

Khương Bảo hất tay ra hiệu dẫn đường, tiếp tục đi sâu vào công trường để đích thân thị sát. Không khí lúc này dường như cũng trở nên khẩn trương hơn, không ai dám chậm tay. Sau lưng họ, nước trong lòng kênh vẫn róc rách chảy, dẫn theo cả hy vọng hồi sinh của một vùng đất khô cằn.



_________





Dưới ánh nắng sớm còn chưa kịp len qua lớp mây mù xám nhạt, Khương phủ như khoác lên mình một tầng khí lạnh im lìm. Trong thư phòng của quân hầu, lò than vẫn đỏ âm ỉ, hương trầm nhè nhẹ lan tỏa, nhưng không xua nổi cái cảm giác âm u đè nén.

Khương Thái Hiển đang cúi đầu bên bàn, trước mặt là những tấu chương chưa kịp phê duyệt, nét chữ cứng cáp nhưng lại đầy dày vò của một người từng đêm lo nghĩ quốc sự. Cánh cửa thư phòng bất ngờ mở ra, tiếng bước chân vội vã vang lên giữa nền đá lạnh lẽo. Một viên quan huyện người gầy gò, sắc mặt xám xanh như kẻ đã thức nhiều đêm liền, run tay khẽ vén áo bước vào, rồi lập tức cúi đầu hành lễ.

“Tham kiến quân hầu.”

Khương Thái Hiển ngẩng đầu lên: “Chuyện gì mà gấp gáp thế?”

Viên quan không nói ngay, chỉ lấy từ trong tay áo ra một cuộn văn thư đã nhàu nhĩ vì bị nắm chặt suốt quãng đường dài. Ông dâng lên bằng hai tay, rồi nói như nén lại một nỗi sợ sâu xa:

“Bẩm quân hầu, thần là huyện lệnh huyện Cẩm An thuộc Phù Lâm quận. Mấy tháng qua trời ít mưa, nước sông Tiêu Hà bắt đầu rút cạn, các nhánh kênh nội địa ở vùng ruộng trũng không còn đủ nước dẫn về. Dân chúng đã nhiều ngày phải đi xa gánh nước, lúa vừa xuống giống đã khô héo. Nay nếu không kịp thời cứu trợ, e là cả vụ mùa sẽ mất trắng.”

Khương Thái Hiển trầm mặc. Hắn mở cuộn văn thư, đọc kỹ từng dòng một, ánh mắt sắc bén lướt qua những con chữ ố vàng như đang nhìn thẳng vào sự khô cạn khắc nghiệt của thiên nhiên. Trên bản đồ vẽ sơ sài bên lề văn thư, hắn nhận ra. Các kênh mương nối liền từ Tiêu Hà vốn là nguồn sống của nửa vùng đông Phù Lâm, giờ đây đã trơ đáy, sỏi trắng lấp loáng như cười nhạo bất lực của con người trước trời đất.

“Thủy đạo bị cản trở ở đoạn nào?” Khương Thái Hiển hỏi, tay gõ nhịp lên mặt bàn gỗ lim.

“Thưa, đoạn kênh chính ở Khê Trấn bị bùn tích tụ, nhiều đoạn chưa nạo vét, cộng thêm nước nguồn từ Trường Sơn không đủ đổ về như mọi năm. Có thể do mưa ít, mà cũng có thể do các huyện phía thượng lưu tranh thủ trữ nước quá mức.”

Hắn gật đầu, mắt hơi nheo lại. “Gửi công văn triệu gấp huyện lệnh các vùng thượng lưu Tiêu Hà về phủ, ta muốn hỏi chuyện. Còn ngươi, lập tức quay lại địa phương, bắt đầu nạo vét khẩn, điều động dân công. Nếu thiếu người thì viết tấu xin binh trợ lực.”

“Dạ, thần tuân lệnh.”

Khương Thái Hiển đứng dậy, sải bước đến bản đồ lớn dán ở vách tường thư phòng. Ngón tay hắn chạm lên vị trí Phù Lâm quận – một vùng đất đông dân, ruộng đồng bát ngát. Từ Phù Lâm đến Tân Kỳ, đều là các vùng trọng điểm về nông nghiệp của Đại Khương. Nếu nơi này khô hạn, hiệu ứng dây chuyền sẽ đẩy giá gạo lên cao, lòng dân bất ổn, và cả quốc khố cũng sẽ chịu áp lực.

Hắn quay lại, nói như ra lệnh: “Lập tức truyền lời cho Khương Bảo đang giám sát kênh đào ở Tân Kỳ, bảo hắn chuyển hướng người đến hỗ trợ Phù Lâm. Lệnh cho Tào Bộ kiểm kê số lương thóc dự trữ ở ba kho lân cận, nếu cần thì mở kho phát gạo cứu tế.”

“Chúa thượng, dạo gần đây hạn hán xảy ra khắp nơi. Năm trước mất mùa, năm nay ngoại trừ Trường An, các quận còn lại đều trắng tay. Nếu giờ cho mở kho lương, e rằng vét sạch cũng không đủ phân phát.” Khương Ngạn đứng bên cạnh, trầm giọng lên tiếng.

Khương Thái Hiển trầm ngâm, tay vuốt nhẹ lên mép bàn. Phù Lâm quận vốn đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ năm trước, nay lại tái diễn hạn hán. Quả thật, như Khương Ngạn nói, cứ mở kho mãi cũng không phải kế lâu dài.

“Nếu để nạn đói lan rộng, dân chúng hoặc là nổi loạn, hoặc là bỏ xứ mà đi. Dù thế nào cũng đều gây ra bất ổn cho triều cục.” Khương Tường tiếp lời.

Khương Thái Hiển gật đầu, sau một thoáng suy nghĩ thì nói: “Trước nay vẫn có nhiều đại hộ tích trữ lương thực trong dân gian. Có thể tạm thời trưng mua từ họ. Dù phải trả giá cao hơn một chút cũng không sao, miễn là cứu được dân.”

Khương Ngạn nghe vậy thì nhíu mày, hơi nghiêng đầu: “Lời này không sai, nhưng nếu ép quá mạnh, các hộ lớn sẽ sinh lòng bất mãn. Nhiều người trong số họ có quan hệ thân thiết với tầng lớp quan lại địa phương. Chúng ta lấy lương thực thì được, nhưng e sẽ tạo ra một làn sóng ngấm ngầm chống đối, khó kiểm soát.”

“Chưa kể,” Khương Tường tiếp lời, “nếu làm không khéo, họ sẽ đẩy giá lên, hoặc giấu kho, cố tình đầu cơ. Khi đó càng khó mua, giá gạo tăng vọt, dân càng khổ.” 

Khương Thái Hiển gật đầu, biểu cảm trở nên trầm trọng hơn. Chuyện đẩy giá, đầu cơ lương thực không phải là điều gì xa lạ trong thời kỳ thiếu thốn. Những người giàu có sẵn kho lương thực sẽ không ngần ngại lợi dụng thời thế để kiếm lời. Điều này không chỉ khiến giá cả leo thang mà còn làm tăng thêm bất ổn trong lòng dân.

“Đúng vậy,” Khương Thái Hiển lên tiếng, giọng khàn đặc vì suy tư, “chúng ta phải thận trọng với mấy kẻ muốn lợi dụng tình hình này. Nếu không ngăn chặn sớm, không những kho lương trống rỗng mà dân cũng không thể chịu đựng được lâu.”

“Vậy nên, cần phải có biện pháp lâu dài hơn,” Khương Tường tiếp tục, “Chúng ta không thể chỉ dựa vào việc mua lương thực từ những nhà giàu. Cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ, mở kho, nhưng phải ngăn chặn mọi hành vi đầu cơ. Chúng ta cũng phải đảm bảo rằng lương thực được phân phối công bằng, tránh tình trạng dân chúng thiếu thốn trong khi những kẻ lợi dụng vẫn có thừa.”

Khương Thái Hiển lắng nghe một lúc, rồi lại nhìn vào bản đồ trước mặt, ánh mắt sắc lạnh như muốn cắt đôi nó.

“Phải, việc này không thể chỉ dựa vào cách làm cũ. Nếu cứ để tình trạng đầu cơ tiếp diễn, sẽ chỉ khiến người dân thêm khổ. Ta sẽ cho người điều tra kỹ lưỡng tất cả các kho lương lớn, đặc biệt là những gia đình có quyền thế. Chúng ta phải đưa ra một quyết định sớm trước khi mọi chuyện vượt quá tầm kiểm soát.”

Khương Ngạn gật đầu, rồi tiếp lời: “Ngoài việc mở kho, có thể phải nghĩ đến một giải pháp lâu dài hơn. Nếu không có đủ lương thực cứu dân, thì chúng ta phải tính đến việc khôi phục lại kênh nước, hoặc ít nhất là cung cấp giống cây trồng cho những nơi đang chịu ảnh hưởng nặng.”

Khương Thái Hiển nhìn vào các quan viên, trong lòng vẫn đang vắt óc tìm ra kế sách phù hợp nhất.

“Được, ta sẽ cân nhắc mọi phương án. Các ngươi tiếp tục điều tra, đừng để bất kỳ chuyện gì lọt qua mắt. Chúng ta cần phải giải quyết vấn đề này trước khi mọi thứ trở nên nghiêm trọng.”

Khương Thái Hiển quay sang nhìn quan huyện, hắn hỏi: “Lương thực ở Phù Lâm còn cầm cự được bao nhiêu?”

“Lương thực…chỉ còn cầm cự được tối đa một tháng nữa.”

Ngữ khí của ông mang theo mỏi mệt và lo lắng, lồng ngực phập phồng như sắp không thở nổi. Mồ hôi lăn dài từ thái dương, rơi xuống nền gạch lát đá xanh.

Khương Thái Hiển chậm rãi đứng dậy. Dáng người hắn cao lớn, bóng lưng dưới ánh sáng buổi chiều kéo dài trên mặt sàn như một vết gươm đổ nghiêng. Hắn khoanh tay sau lưng, đi đến bên cạnh cửa sổ, ánh mắt nhìn xa xăm ra sân đá phía ngoài. Đám chim sẻ bay lượn bên tán cây, tiếng hót thảng thốt trong cơn gió khô.

Lúc này, Bách Lý Huyền – lão quân sư tóc đã bạc trắng – đặt chiếc quạt giấy xuống bàn, từ tốn lên tiếng:

“Việc này cần vừa mềm mỏng vừa cứng rắn. Trước hết nên hạ chiếu trấn an dân chúng, để họ không hoang mang. Sau đó, phái người đi các thôn xóm kiểm kê số lượng thực tế. Nhưng không thể để các địa phương tự làm, phải có người của triều đình giám sát. Khương Bảo là người thông minh, thạo việc dân, lại cứng rắn. Nên giao việc này cho hắn.”

Khương Thái Hiển quay đầu, gật một cái:

“Vậy thì truyền lệnh cho Khương Bảo, lập tức rời Tân Kỳ, đến Phù Lâm kiểm tra tình hình, thay ta ứng phó trước mắt.”

Dừng một lúc rồi hắn nói tiếp:

“Trong ba ngày, lập danh sách tất cả thương hộ, đại tộc có tích trữ lương. Điều tra kho hàng, số lượng rõ ràng, trình báo về phủ. Nếu phát hiện có kẻ giấu giếm, đầu cơ trục lợi, thì tịch thu phân nửa sung vào công khố. Ai dám kháng lệnh, lấy quân pháp xử trí.”

“Rõ!”

____________


Gió đêm mát lạnh như nước, lặng lẽ trôi qua hành lang dài uốn cong của Khương phủ, mang theo hương thơm nhè nhẹ từ hoa mộc nơi góc sân. Ánh trăng rọi xuống mái ngói âm dương lấp loáng, soi lên khuôn mặt Khương Thái Hiển một tầng sáng mờ mờ, vừa ấm áp, vừa xa cách như một giấc mộng mùa thu chưa tỉnh.

Hắn đứng lặng trước cửa phòng, không động đậy, ánh mắt dõi theo vầng trăng tròn vành vạnh đang treo lơ lửng giữa trời cao. Tà áo dài phất nhẹ trong gió, dáng người cao lớn dưới ánh sáng ấy lại mang theo chút cô đơn không rõ hình dạng. Trong lòng Khương Thái Hiển lúc này không khác gì một tấm lưới rối, vừa là sợi tơ của thiên hạ, vừa là dây mảnh trong gia thất. Kéo bên này thì rối bên kia, càng muốn gỡ càng rối thêm, khiến ngực như bị ai đó cột chặt, hít thở cũng không thông.

“Ngài đang nghĩ gì vậy?” Một giọng nói khẽ khàng vang lên bên cạnh, như giọt sương đầu cành bất ngờ rơi xuống mặt nước.

Khương Thái Hiển khựng lại, hơi nghiêng đầu nhìn. Thôi Phạm Khuê từ trong phòng bước ra, y khoác một chiếc áo choàng mỏng màu khói nhạt, tóc buộc hờ sau gáy, vài sợi tơ mảnh buông xuống má, dưới ánh trăng như phủ một tầng ánh sáng mỏng. Khuôn mặt thanh tú của y vẫn bình lặng, giọng điệu không mang theo trách móc, chỉ là dịu dàng và nhẹ nhàng, như một cơn gió thu vô tình lướt qua lòng sông.

Khương Thái Hiển chớp mắt một thoáng, như chưa kịp phản ứng lại với sự xuất hiện đột ngột ấy. Một lúc sau, hắn mới chậm rãi đáp: “Không có gì, chỉ nghĩ ngợi vài chuyện thôi.”

“Ngài đang nghĩ về chuyện nạn đói ở Phù Lâm phải không?” Thôi Phạm Khuê hỏi.

Khương Thái Hiển nghiêng đầu nhìn y, ánh mắt có chút tâm tư. Một lúc sau mới đáp: “Tin tức của nàng nhanh nhạy đấy.”

Thôi Phạm Khuê mỉm nhẹ, nhàn nhạt nói: “Hôm nay Tiểu Đoá dâng lên tổ mẫu quà mừng thọ của quận thú Phù Lâm nên mới biết. Bách tính đang chịu khổ, lòng thiếp cũng không yên. Quân hầu thấy vướng mắc ở đâu, có thể giãi bày với thiếp. Mong có thể san sẻ bớt cùng quân hầu.”

Khương Thái Hiển lặng người một lúc rồi chỉ nói gọn: “Ăn cơm trước đã, không bàn chính sự nữa.”

Dưới ánh đèn, Khương Thái Hiển lặng lẽ quay người bước vào trong, bóng lưng hắn kéo dài trên nền đất như một nét mực trầm. Thôi Phạm Khuê cũng theo sau, nhẹ nhàng bước từng bước như sợ kinh động đến tâm sự đang rối bời trong lòng hắn.

Y ngồi xuống đối diện, ánh mắt lướt qua sắc mặt của hắn. Thấy Khương Thái Hiển không biểu lộ gì ngoài việc chăm chú ăn cơm, y mới cất giọng, dò xét từng chút một:

“Thiếp từng nghe nói, Thanh Châu ở phía bắc, con người nơi đó giọng sang sảng, mạnh mẽ như dòng sông cuộn chảy. Còn Nam Dương ở phương nam, người dân lại nói năng nhỏ nhẹ, dịu dàng như nước suối mát rượi. Quân hầu có biết vì sao không?”

Khương Thái Hiển chẳng đáp lời, chỉ cúi đầu gắp rau, như thể không hề nghe thấy. Thôi Phạm Khuê thấy vậy, khẽ nhếch môi rồi nói tiếp:

“Hoá ra, chất giọng của một người, lại liên quan mật thiết đến thứ họ ăn hàng ngày. Mỗi vùng đất đều nuôi dưỡng một kiểu người riêng, đúng là ‘sống ở đâu, mang đặc điểm ở đó’.”

Lúc này, Khương Thái Hiển mới ngẩng đầu, buông đũa xuống bàn, không nhịn được mà đáp lại:

“Phải nói là trồng trọt cái gì, thì sinh ra cái đó mới đúng.”

Thôi Phạm Khuê gật đầu cười, như thể cuối cùng cũng khiến hắn chịu mở lời. Y nhẹ giọng nói tiếp:

“Quân hầu nói chí phải. Thiếp nghe nói, Đại Khương ta chủ yếu gieo lúa mì vụ xuân, một loài cây chịu hạn tốt, sống bám đất cằn cỗi, chẳng cần chăm sóc cũng có thể trưởng thành. Giống như bách tính Đại Khương, sống trong gian khó mà vẫn kiên cường. Chỉ tiếc, lúa mì vụ xuân không cho sản lượng cao, nếu năm nào trời hạn quá, thì dù có trồng nhiều đến đâu, cũng chẳng gặt hái được bao nhiêu.”

Lời nói như thấm vào lòng đất khô cằn, cũng như vào trong lòng người đang chất chứa nỗi lo toan. Trong khoảnh khắc y ngước nhìn, ánh mắt Khương Thái Hiển chợt trở nên mơ hồ, như đang nghĩ đến ruộng đồng khô nẻ nơi phương xa và những gương mặt lam lũ đang ngước lên trông đợi một cơn mưa.

Khương Thái Hiển buông đũa, lặng im giây lát, rồi thở dài một hơi dài như từ tận đáy phổi. Giọng nói hắn khi cất lên như mang theo cả nỗi mệt mỏi chưa thể gọi thành tên.

“Đúng thế. Phù Lâm cũng đang oằn mình trong cảnh ấy. Ruộng khô nứt nẻ, nước giếng cạn trơ đáy, lúa non chưa bén rễ đã chết héo. Năm ngoái đã vậy, năm nay lại lặp lại...”

Thôi Phạm Khuê gật đầu, ánh mắt trầm lại. Y hỏi: “Thế quân hầu tính thế nào?”

Khương Thái Hiển nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi ánh trăng lặng lẽ phủ một lớp bạc lạnh lẽo lên vòm trời. Hắn đáp, từng chữ rắn rỏi nhưng không giấu được vẻ nặng nề:

“Chỉ còn cách đi từng quận, từng phủ, gom lương thực từ các nơi còn đủ đầy. Dù phải trả giá cao, cũng phải tìm mọi cách chuyển về Phù Lâm. Không thể để dân chúng chết đói trước mắt.”

Hắn ngừng một chút, rồi nói tiếp: “Đợi khi hàng tới, sẽ phát chẩn từng thôn, từng nhà. Nếu làm gấp, còn có thể giữ được nhân tâm. Còn nếu để chậm trễ, dân chúng sẽ chẳng còn đủ sức mà oán than nữa.”

“Vay mượn lương thực là kế trước mắt nhưng không phải kế lâu dài. Phù Lâm mất mùa do hạn hán, muốn diệt trừ tận gốc vấn nạn này, có khi nên dẫn kênh Tiêu Hà về phương Nam. Cho xây dựng ở Phù Lâm. Nếu có thể đảm bảo nước tưới tiêu, từ nay về sau sẽ không mất mùa nữa.”

Khương Thái Hiển vẫn giữ dáng vẻ điềm tĩnh. Hắn không vội đáp lời, chỉ lặng lẽ đưa muỗng canh lên miệng, động tác thong thả đến mức gần như lạnh nhạt. Một lúc sau, mới buông một câu:

“Ta thấy, nàng không phải đang nghĩ cách trừ họa. Mà là muốn gắp họa bỏ sang chỗ khác.”

Thôi Phạm Khuê hơi khựng lại, tay đang đặt bên mép áo khẽ siết. Y nhìn hắn, mày hơi nhíu: “Quân hầu nói gì đấy? Thiếp thật không hiểu.”

“Nàng quá hiểu ấy chứ.” Khương Thái Hiển cười nhạt, không nhìn y mà tiếp tục nói, giọng nói vẫn mang theo vẻ lãnh đạm quen thuộc.

“Xây sửa kênh cần rất nhiều nhân, vật và tài lực. Đường từ Tân Kỳ đến Phù Lâm xa xôi, nếu xây kênh, chắc chắn ta sẽ không còn sức lực tiến đánh Vĩnh Châu.”

Hắn ngừng lại, ánh mắt lúc này mới chuyển sang nhìn thẳng y, như muốn đâm xuyên qua lớp mặt nạ bình tĩnh: “Chưa kể Phù Lâm gần Ngô Quận, nếu ta xây xong kênh này. Mức độ uy hiếp của ta với Ngô Quận lớn hơn với Vĩnh Châu. Không phải nàng tính toán thế sao?”

Một thoáng bối rối hiện rõ trong ánh mắt Thôi Phạm Khuê. Dù y nhanh chóng trấn tĩnh, nhưng không thoát khỏi sự sắc sảo trong ánh nhìn của hắn. Y chậm rãi đáp lại: “Ta không thể nghĩ đến mức thế.”

“Với cái đầu của nàng,” Khương Thái Hiển cắt lời, “ta tin còn nghĩ xa hơn thế.”

Không khí trong phòng như chùng xuống. Tiếng muỗng va vào miệng bát vang lên, như giọt nước rơi vào đá tảng.

Thôi Phạm Khuê hít một hơi, rồi gật đầu thừa nhận:

“Lời quân hầu nói, quả thực rất giống suy nghĩ của thiếp. Chuyện đề xuất xây kênh, đúng là xuất phát từ tâm tư mưu tính cho Vĩnh Châu.”

Khương Thái Hiển nhìn y chăm chú, rồi bật cười khẽ, một nụ cười không vui cũng chẳng giận, chỉ như thể đang nhìn rõ bản chất một con người đã quá quen với việc cân đo lợi ích.

“Thôi thị à...quả nhiên là không bao giờ chịu bỏ không một nước cờ nào.” Hắn buông giọng đầy giễu cợt.

“Đại Khương hao người tổn của để xây kênh, nhưng nếu đổi lại sự ổn định cho Vĩnh Châu, thì cũng đáng. Kênh này dẫn nước về Phù Lâm, vừa cứu dân đen đang lâm vào cảnh khốn cùng, lại vừa gia ân cho bách tính Đại Khương, điều đó là sự thật. Một công trình, hai mục đích, vừa giữ được sinh mạng cho Vĩnh Châu thêm vài năm, vừa ghi lại công đức muôn đời cho triều đình. Sao lại không nên làm?”

Y ngẩng đầu nhìn hắn, ánh mắt không chớp, như đang dồn cả hy vọng vào người trước mặt.

Khương Thái Hiển im lặng trong chốc lát. Hắn không đáp lời ngay mà chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn y, tựa như đang cân đo giữa lý trí và cảm xúc. Cuối cùng, hắn chậm rãi đặt đôi đũa xuống bàn, nghiêng đầu nói:

“Nàng tính toán rõ ràng thật đấy. Nhưng ta cũng có toan tính riêng của mình. Sau này những chuyện như thế không cần nàng phải nhắc lại nữa. Ăn cơm đi.”

Một câu nói nhẹ nhàng, nhưng lại như tạt thẳng một gáo nước lạnh lên người Thôi Phạm Khuê. Y sững người trong thoáng chốc, đôi mắt ánh lên chút hụt hẫng, nhưng cuối cùng chỉ lặng lẽ cúi đầu, ngoan ngoãn gắp cơm đưa lên miệng.

Không gian bỗng yên ắng đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng bát đũa va chạm khe khẽ. Bên ngoài, gió đêm thổi qua rặng liễu, cuốn theo mùi hương thanh mát, nhưng trong lòng người ngồi dưới ánh đèn kia, lại chỉ còn lại một khoảng lặng ngổn ngang khó nói thành lời.

___________


Sáng hôm sau, trời vừa tỏ, sương sớm vẫn còn đọng nơi đầu cỏ, từng giọt nhỏ như pha lê lung linh dưới ánh nắng đầu ngày. Trong không khí còn phảng phất hơi lạnh của đêm qua, Thôi Phạm Khuê khoác chiếc áo choàng mỏng, lặng lẽ rời khỏi phòng.

Y không đến vườn dạo bước như thường lệ, cũng chẳng ghé qua chỗ tổ mẫu thăm hỏi sớm mai. Bước chân của y nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, một mạch đi thẳng đến thư phòng của Khương Thái Hiển.

Cánh cửa gỗ lim khép hờ, hương mực còn vương trên án thư, quện với mùi giấy cũ và gỗ trầm, tạo nên một thứ mùi quen thuộc khiến lòng người an tĩnh. Thôi Phạm Khuê đẩy cửa bước vào, ánh sáng dịu của buổi sớm đổ dài qua song cửa sổ, rọi lên những kệ sách được sắp đặt cẩn thận.

Y bước đến một kệ sát vách, tay lần theo gáy những cuốn sách cũ. Mắt lướt nhanh qua từng tựa đề: “Thủy Pháp Tân Luận”, “Chế Kênh Đại Cương”, “Tứ Hải Dẫn Thủy Ký”... tất cả đều là sách viết về kỹ thuật thủy lợi, dẫn thủy nhập điền, chống hạn cứu mùa. Y kéo ra một quyển, lật vài trang rồi gật đầu, đặt sang một bên. Y tiếp tục chọn thêm hai quyển nữa, xếp cẩn thận trên bàn.

Gió sớm khẽ lay bức rèm cửa, ánh sáng dập dềnh rơi xuống khuôn mặt chăm chú của Thôi Phạm Khuê. Y đứng đó, trầm lặng giữa thư phòng rộng lớn, như một bóng dáng cô đơn đang gắng sức tìm lối đi cho muôn dân giữa lúc gian nguy.

Có tiếng bước chân vang lên phía ngoài hành lang. Y không cần quay đầu cũng biết là ai đang đến. Nhưng y không vội, chỉ yên lặng lật trang sách trong tay, như thể mượn những dòng chữ khô khan để chống lại những cảm xúc vừa phức tạp vừa sâu nặng đang cuộn trào trong lòng.

Bên ngoài thư phòng, bóng dáng Cố Tử Dật bất ngờ xuất hiện. Vừa thấy hắn, Tiểu Đoá – thị đồng thân cận bên cạnh Khương Thái Hiển – lập tức hành lễ cung kính:

“Điện hạ.”

Cố Tử Dật gật đầu, ánh mắt hướng về phía cánh cửa thư phòng khép hờ: “Thái Hiển có ở bên trong không?”

“Dạ, hiện tại quân hầu đang ở nha môn, hình như đang bàn một số việc với quan lại ạ.”

“Vậy ta vào trong ngồi đợi.” Hắn vừa dứt lời đã định cất bước, nhưng bị Tiểu Đoá vội vàng đưa tay ngăn lại.

“Điện hạ…e là lúc này không tiện cho lắm.”

Cố Tử Dật hơi nhướng mày, ánh mắt sắc lại, giọng mang theo một tia giễu cợt:

“Không tiện chỗ nào?”

Tiểu Đoá thoáng chần chừ, vẻ mặt hiện rõ nét khó xử, hai tay vô thức siết chặt trước bụng như đang giằng co giữa khuôn phép và bổn phận.

Đúng lúc ấy, cánh cửa thư phòng khẽ phát ra một tiếng “cạch”. Thôi Phạm Khuê từ bên trong bước ra, vận y phục lụa màu mộc nhã nhặn, tay ôm mấy cuốn sách cổ, dáng vẻ bình thản nhưng ánh mắt thoáng dao động khi bắt gặp thân ảnh quen thuộc đứng ngoài hành lang.

“Biểu huynh.” Y dừng chân, cúi người thi lễ.

Ánh mắt Cố Tử Dật hạ xuống lướt qua y một lượt, rồi chuyển sang Tiểu Đoá, nơi khóe môi chậm rãi nhếch lên một tia lạnh lùng khó tả.

“Tiểu Đoá, ngươi làm việc kiểu gì vậy?” Giọng hắn nhẹ nhưng mang theo hàm ý không vui. “Thư phòng của Thọ Đức, từ khi nào để người ngoài ra vào tùy tiện như vậy?”

Câu nói tưởng như chỉ là lời quở trách đơn thuần, nhưng từng chữ như lưỡi dao lạnh, vừa nhằm vào người hầu vô tội, lại vừa không giấu nổi mũi nhọn hướng về người đang đứng trước mặt hắn. Không khí trước hiên thoáng chốc như đặc lại, mùi sách cũ, mùi gỗ mộc và hương thảo nhàn nhạt

“Chuyện này không thể trách Tiểu Đoá.” Thôi Phạm Khuê nhẹ nhàng nói, cố giữ vẻ bình tĩnh. “Trước đây quân hầu từng dặn, nếu ta cần tra cứu tài liệu hay sách vở gì, có thể tự mình vào thư phòng tìm, không cần xin phép ngài ấy.”

Cố Tử Dật nghe xong thì cười khẩy, không rõ là cười vì sự khoan dung của Khương Thái Hiển, hay vì cái lý do quá hợp tình hợp lý kia. Hắn không nói gì, chỉ phất tay ra hiệu cho Tiểu Đoá lui xuống.

“Dạ…điện hạ.” Tiểu Đoá cúi đầu thi lễ, ánh mắt thoáng lướt qua Thôi Phạm Khuê như muốn xin lỗi rồi lập tức quay người rời đi.

“Tiểu Đoá—” Thôi Phạm Khuê định gọi lại, nhưng người đã chạy mất hút. Y khựng người, nhất thời bị bỏ rơi lại giữa hiên thư phòng, lòng rối như tơ vò.

Cố Tử Dật không để y kịp định thần, hắn bước tới, ánh mắt lạnh lùng lướt qua, rồi đột ngột giật lấy chồng sách y đang ôm trong tay. Động tác nhanh gọn như thể chẳng muốn chạm vào người y quá lâu.

“Ta mượn tạm.” Hắn dửng dưng nói, rồi lập tức quay lưng, bước đi không thèm ngoảnh lại.

Đột nhiên, Cố Tử Dật dừng bước. Hắn cúi đầu, ánh mắt lướt nhanh qua tiêu đề cuốn sách trên cùng, chân mày thoáng nhướng lên, giọng nói pha chút mỉa mai vang lên giữa hiên thư phòng tĩnh lặng:

“Phù Lâm Phong Vật Chí?”

Hắn xoay người, từng bước chậm rãi tiến về phía Thôi Phạm Khuê, ánh mắt nửa giễu cợt, nửa dò xét.

“Một nữ tử gốc Vĩnh Châu như đệ muội đây,” Cố Tử Dật ngả người về phía trước, giọng hạ thấp như thể cố tình đè nặng từng chữ, “tự nhiên lại tò mò tìm đọc sách viết về địa lý, thủy lợi của Đại Khương ta là vì lẽ gì? Muội có mục đích gì, hay chỉ đơn thuần muốn đọc cho khuây?”

Thôi Phạm Khuê ngẩng mặt, không tránh né ánh mắt của hắn, điềm tĩnh đáp lời:

“Ta tuy sinh ra ở Vĩnh Châu, nhưng hiện là chính thất của quân hầu Đại Khương. Có tư cách tra cứu sách vở, chẳng lẽ lại là điều không nên?”

Cố Tử Dật “hừ” lạnh một tiếng, trong mắt không giấu nổi khinh thường. Hắn xoay quyển sách trong tay, rồi đột ngột nhìn xoáy thẳng vào y, lời nói như dao cứa thẳng vào lòng người:

“Vậy đệ muội dám nói với ta, muội cưới Thọ Đức không phải vì mưu đồ riêng, không phải vì muốn lợi dụng địa vị và sức ảnh hưởng của hắn để mưu tính cho Vĩnh Châu?”

Không khí trong chốc lát như đông cứng. Nhưng Thôi Phạm Khuê vẫn giữ nét mặt bình thản, ánh mắt không dao động, chỉ đáp nhẹ:

“Chuyện giữa ta và quân hầu, từ đầu đến cuối, đều là việc riêng trong nhà. Có hay không có tính toán, là do người trong cuộc tự hiểu. Không đến lượt biểu huynh phải bận tâm thay.”

“Hơn nữa, ta và—”

Lời còn chưa kịp thốt ra hết, Cố Tử Dật đột ngột áp sát, cắt ngang bằng một động tác bất ngờ khiến Thôi Phạm Khuê sững người. Khoảng cách giữa hai người thu hẹp chỉ còn gang tấc. Hơi thở của hắn phả sát bên tai, trầm thấp và lạnh lẽo như dao găm lướt qua da thịt.

“Cô đừng quên…” Hắn nói khẽ, từng chữ như mũi tên tẩm độc, nhắm thẳng vào tâm khảm. “Vĩnh Châu và Đại Khương, xưa nay nước lửa khó dung. Người Khương gia sẽ không bao giờ chấp nhận một nữ tử Vĩnh Châu làm người nhà.”

Thôi Phạm Khuê thoáng run lên, y siết chặt bàn tay rồi nhanh chóng giật lại cuốn sách trong tay hắn, lùi hẳn về sau vài bước như thể đang thoát khỏi một cái bẫy vô hình.

“Ta xin cáo lui trước.”

Dứt lời, y quay người bước nhanh ra khỏi hành lang, tấm lưng mảnh khảnh thẳng tắp, nhưng hai vai lại run lên, như đang cố gắng trấn định bản thân giữa một cơn bão ngầm không lời. Cố Tử Dật đứng nguyên tại chỗ, khóe môi nhếch lên, ánh mắt tối lại như vừa bóp nghẹt được một nhược điểm.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz