Lieu Trai Chi Di Full
CHƯƠNG 128: THANH NGAHuyện Viên Tằng Thám Tú Phòng Xuân
Tạc Thạch Trùng Liên Động Phủ Nhân
Đạo Sĩ Tặng Sam Như Hữu Ý
Độ Tha Hiếu Tử Tác Tiên NhânDịch:Khoét Tường Xuân Sắc Phòng Hương Ngỏ
Động Phủ Đôi Phen Tạc Đá Nguyền
Đạo Sĩ Tặng Sam Chừng Có Ý
Độ Chàng Hiếu Tử Trở Thành Tiên•Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi. *[Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa].Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói:- Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng.Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói:- Công tử đã thích thì ta xin tặng!Sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp. Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào. Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói:- Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi.Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói:- Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói:- Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói:- Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi.Rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về. Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói:- Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?Từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết. Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp:- Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh.Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói:- Ta sẽ tác thành cho anh!Rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói:- Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi.Sinh cười nói:- Đừng quên bà mối chứ.Rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà. Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh:- Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi:- Bị phồng chân phải không?Sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói:- Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông.Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi. Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu. Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi:- Sao chàng tới được nơi đâySinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi:- Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?Cô gái đáp:- Không phải! Đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên.Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói:- Con rể tới rất hay, nên ở lại đây!Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói:- Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì.Rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ. Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói:- Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói:- Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi.Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp:- Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo.Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp. Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói:- Nghiệt chướng thay!Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói:- Bước ngay, bước ngay!Vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói:- Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết. Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất. Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh:- Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về”.Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi. Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề:- Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên.Giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói:- Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói:- Đó là cha mẹ ta đấy!Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói:- Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được?Nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin. Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp:- Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa”. Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả.Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích. ____________________________________CHƯƠNG 129: NHA ĐẦUTiêu Độn Thông Thông Đảo Hán Cao
Bình Khang Lạc Tịch Yếm Đồng Thao
Thất Trung Hữu Tử Tuy Thần Vũ
Tẩy Tủy Hoàn Kỳ Cánh Phạt MaoDịch:Mải Mốt Đêm Chuồn Đến Hán Giang
Bản Tâm Đã Ngán Cảnh Bình Khang
Trong Nhà Dù Có Con Thần Vũ
Tẩy Tủy Thay Lông Sửa Tính Cương•Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp:- Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ.Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp:- Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ.Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói:- Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho.Vương bùi ngùi nói:- Thật không dám có ý ấy!Nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói:- Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được? Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói:- Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài.Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang. Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói:- Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói:- Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi.Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường. Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói:- Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn.Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói:- Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi.Cô gái nói:- Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn.Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói:- Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?Vương hỏi thì nàng đáp:- Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi.Đến khuya nàng mừng rỡ nói:- Không sao, là chị Nật tới!Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng:- Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về.Rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói:- Chỉ theo một người thì có tội gì?Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói:- Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay.Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói:- Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong.Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi. Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói:- Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?Nó đáp:- Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông".Vương cả sợ nói:- Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi.Nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu. *[Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn)]. Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói:- Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy.Vương sa nước mắt nói:- Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi!Rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi:- Sao ông lại tới nông nỗi này?Triệu than:- Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói:- Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy.Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết:- Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy.Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói:- Sao con không nghe lời ta?Rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng:- Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế?Rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói:- Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ. Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương:- Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp.Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói: - Con không có tội gì!Mẹ nói:- Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la.Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói:- Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người.Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức.
Tạc Thạch Trùng Liên Động Phủ Nhân
Đạo Sĩ Tặng Sam Như Hữu Ý
Độ Tha Hiếu Tử Tác Tiên NhânDịch:Khoét Tường Xuân Sắc Phòng Hương Ngỏ
Động Phủ Đôi Phen Tạc Đá Nguyền
Đạo Sĩ Tặng Sam Chừng Có Ý
Độ Chàng Hiếu Tử Trở Thành Tiên•Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi. *[Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa].Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói:- Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng.Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói:- Công tử đã thích thì ta xin tặng!Sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp. Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào. Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói:- Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi.Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói:- Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói:- Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói:- Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi.Rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về. Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói:- Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?Từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết. Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp:- Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh.Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói:- Ta sẽ tác thành cho anh!Rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói:- Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi.Sinh cười nói:- Đừng quên bà mối chứ.Rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà. Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh:- Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi:- Bị phồng chân phải không?Sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói:- Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông.Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi. Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu. Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi:- Sao chàng tới được nơi đâySinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi:- Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?Cô gái đáp:- Không phải! Đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên.Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói:- Con rể tới rất hay, nên ở lại đây!Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói:- Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì.Rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ. Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói:- Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói:- Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi.Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp:- Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo.Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp. Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói:- Nghiệt chướng thay!Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói:- Bước ngay, bước ngay!Vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói:- Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết. Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất. Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh:- Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về”.Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi. Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề:- Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên.Giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói:- Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói:- Đó là cha mẹ ta đấy!Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói:- Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được?Nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin. Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp:- Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa”. Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả.Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích. ____________________________________CHƯƠNG 129: NHA ĐẦUTiêu Độn Thông Thông Đảo Hán Cao
Bình Khang Lạc Tịch Yếm Đồng Thao
Thất Trung Hữu Tử Tuy Thần Vũ
Tẩy Tủy Hoàn Kỳ Cánh Phạt MaoDịch:Mải Mốt Đêm Chuồn Đến Hán Giang
Bản Tâm Đã Ngán Cảnh Bình Khang
Trong Nhà Dù Có Con Thần Vũ
Tẩy Tủy Thay Lông Sửa Tính Cương•Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp:- Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ.Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp:- Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ.Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói:- Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho.Vương bùi ngùi nói:- Thật không dám có ý ấy!Nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói:- Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được? Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói:- Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài.Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang. Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói:- Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói:- Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi.Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường. Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói:- Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn.Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói:- Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi.Cô gái nói:- Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn.Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói:- Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?Vương hỏi thì nàng đáp:- Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi.Đến khuya nàng mừng rỡ nói:- Không sao, là chị Nật tới!Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng:- Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về.Rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói:- Chỉ theo một người thì có tội gì?Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói:- Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay.Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói:- Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong.Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi. Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói:- Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?Nó đáp:- Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông".Vương cả sợ nói:- Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi.Nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu. *[Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn)]. Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói:- Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy.Vương sa nước mắt nói:- Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi!Rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi:- Sao ông lại tới nông nỗi này?Triệu than:- Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói:- Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy.Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết:- Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy.Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói:- Sao con không nghe lời ta?Rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng:- Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế?Rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói:- Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ. Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương:- Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp.Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói: - Con không có tội gì!Mẹ nói:- Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la.Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói:- Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người.Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức.
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz