Chương 37: Bàn Tử khôn vặt
我不知道这东西是什么,好像是一种大个儿的娃娃鱼,以前在老家吃过,但从没见过这么打的,看着非常瘆人。Tôi không biết thứ này là gì, hình như là một loại cá cóc cỡ lớn. Trước đây tôi từng ăn ở quê, nhưng chưa bao giờ thấy con nào to đến mức này, trông rất rợn người.至于那手电筒,我一见太阳穴就一跳,正是之前裸潜的时候用的老黄皮手电筒。Còn về chiếc đèn pin đó, thái dương tôi giật thót một cái khi nhìn thấy. Chính là chiếc đèn pin vỏ da màu vàng cũ kỹ mà tôi đã dùng khi lặn trần trước đây.这肯定是胖子他们带下来的,看那娃娃鱼身上的线,也肯定是人绑上去的,难不成是胖子他们的杰作?Thứ này chắc chắn là do Bàn Tử và họ mang xuống. Nhìn sợi dây trên người con cá cóc, cũng chắc chắn là do người buộc vào. Chẳng lẽ là kiệt tác của Bàn Tử và họ?我脑子一转,一下就明白了怎么回事。Đầu óc tôi quay nhanh, lập tức hiểu ra chuyện gì đang xảy ra.没有人会莫名其妙地这么干,胖子很可能是想让别人注意到这只娃娃鱼。Không ai lại làm chuyện này một cách vô duyên vô cớ. Bàn Tử rất có thể muốn người khác chú ý đến con cá cóc này.难道他们被困在了某个地方,只好通过这种方式求救?Chẳng lẽ họ bị mắc kẹt ở một nơi nào đó, đành phải dùng cách này để cầu cứu?打死我也没想到,那青光是这种东西发出来的。Đánh chết tôi cũng không ngờ, ánh sáng xanh lục đó lại do thứ này phát ra.他娘的!手电筒光怎么变成绿色的了?Chết tiệt! Ánh đèn pin sao lại biến thành màu xanh lục rồi?一下放松下来,人顿时瘫软,浑身都松了劲。Thoáng cái đã thả lỏng, người tôi lập tức rã rời, toàn thân như hết sạch sức lực.看来我想的没错,他们在水下真有奇遇,现在很可能还活着,只是被困在某个地方,不得不透过这种方式求救。Xem ra tôi đoán không sai, họ thực sự có những cuộc phiêu lưu kỳ lạ dưới nước. Hiện tại rất có thể họ vẫn còn sống, chỉ là bị mắc kẹt ở một nơi nào đó, đành phải dùng cách này để cầu cứu.这个地方很可能有空气,但是为谁所隔断。Nơi này rất có thể có không khí, nhưng bị ngăn cách bởi thứ gì đó.虽然不知道胖子和闷油瓶在水下到底经历了什么,又是怎么到达那地方的,但能摘掉他们很可能还活着,感觉太好了!Mặc dù không biết Bàn Tử và Muộn Du Bình rốt cuộc đã trải qua những gì dưới nước, và làm thế nào để đến được nơi đó, nhưng biết được họ rất có thể còn sống, cảm giác thật tuyệt vời!以胖子那种鬼精性格,娃娃鱼上面可能还有关于他们近况的线索,得把它逮住才行。Với cái tính lanh lợi quỷ quái của Bàn Tử, trên con cá cóc có lẽ còn có manh mối về tình hình gần đây của họ. Phải bắt được nó mới được.可人在水下手脚很不方便,再看那东西游动的速度,恐怕够呛。Nhưng con người ở dưới nước chân tay rất bất tiện, nhìn tốc độ bơi của thứ đó, e rằng rất khó khăn.娃娃鱼是水中一霸,咬人非常厉害,而且这个头也太大了,一口下去,恐怕我的手指都得交代。Cá cóc là bá chủ dưới nước, cắn người rất dữ dội, hơn nữa cái đầu này cũng quá lớn, một miếng cắn xuống, e rằng ngón tay tôi cũng phải bỏ lại.不管了!再戗也得试试。Kệ nó! Dù có khó khăn đến mấy cũng phải thử.我举起军刺,缓缓地游过去,尽量地慢,但只靠近了一米多,嗖的一下,那东西猛地一摆尾巴,闪电一般游出去六七米,停到了砖石的另一边。Tôi giơ dao găm quân dụng lên, chầm chậm bơi tới, cố gắng hết sức chậm rãi. Nhưng chỉ vừa đến gần hơn một mét, vút một cái, thứ đó đột ngột quẫy đuôi, bơi đi sáu bảy mét nhanh như chớp, dừng lại ở phía bên kia đống gạch đá.靠!这东西就算在岸上用鱼叉都不一定能叉中,更不要说我现在得在水里用手捉了。Khỉ thật! Thứ này dù ở trên bờ dùng lao móc còn chưa chắc đâm trúng, huống hồ bây giờ tôi phải dùng tay bắt nó dưới nước.好在它看似温顺,没来攻击。May mắn là nó có vẻ hiền lành, không tấn công tôi.我还想尝试,继续缓缓地靠过去,这一次几乎挨近它了,但就在伸手的哪一刹那,它又迅速地闪到了另外一个地方。Tôi vẫn muốn thử, tiếp tục chầm chậm bơi đến gần. Lần này gần như đã sát bên nó, nhưng ngay khoảnh khắc tôi đưa tay ra, nó lại nhanh chóng vụt sang một chỗ khác.我立刻意识到自己在水下不可能抓到这种东西,它滑动尾部形成的水流很有劲道,不难想象爆发力有多大,即使抓在手里,凭我的力气很可能也制不住。Tôi lập tức nhận ra mình không thể bắt được thứ này dưới nước. Dòng nước do nó quẫy đuôi tạo ra rất mạnh mẽ, không khó để tưởng tượng lực bộc phát lớn đến mức nào. Ngay cả khi bắt được trong tay, với sức lực của tôi rất có thể cũng không giữ được.氧气灯发出警报,我有些急躁,用手电筒四处去照,想找找有没有可利用当工具的东西。Đèn báo oxy phát cảnh báo, tôi hơi sốt ruột. Tôi dùng đèn pin chiếu khắp nơi, muốn tìm xem có thứ gì có thể tận dụng làm công cụ không.偏偏周围什么都没有,那些铁俑重的要命,就算有用我也举不起来。Thế nhưng xung quanh lại chẳng có gì cả. Những tượng sắt kia nặng kinh khủng, dù có hữu ích tôi cũng không nhấc lên được.念头一转,想到自己带下来的那根军刺。Ý nghĩ xoay chuyển, tôi nghĩ đến cây dao găm quân dụng mà mình mang xuống.这可说是我的精神支柱,虽然从来没用过。Đây có thể nói là chỗ dựa tinh thần của tôi, mặc dù chưa từng sử dụng bao giờ.我实在不想伤这条娃娃鱼,怎么说它也是一个生命,但到了这个时候,心中无比急切,再管不了那么多了。Tôi thực sự không muốn làm tổn thương con cá cóc này, dù sao nó cũng là một sinh linh, nhưng đến lúc này, lòng tôi vô cùng nóng vội, không thể bận tâm nhiều nữa.人的恶性一旦上来,什么怜悯都是空话。Bản tính xấu xa của con người một khi trỗi dậy, mọi lòng trắc ẩn đều là lời nói suông.我再次游过去,举起军刺就像把它钉死,就算一下钉不死,至少让它受伤,没法再游得这么快。Tôi lại bơi tới, giơ dao găm lên như muốn ghim chết nó. Dù không ghim chết được ngay, ít nhất cũng khiến nó bị thương, không thể bơi nhanh đến thế nữa.它停在了铁架子的脚下,趴在上面的青砖上,我屏住呼吸,浮尸一样缓缓漂过去,一点一点地靠近。Nó dừng lại dưới chân giá sắt, nằm bò trên viên gạch xanh phía trên. Tôi nín thở, từ từ trôi qua như một cái xác nổi, từng chút từng chút tiến lại gần.眼看来到离它只有半个胳膊的地方,犹如电影的慢镜头般极度缓慢地举起手里的军刺,挪动到差不多的位置,便想刺下去。Mắt thấy đã đến gần nó chỉ còn nửa cánh tay, tôi cực kỳ chậm rãi giơ con dao găm trong tay lên như một cảnh quay chậm trong phim, dịch chuyển đến vị trí vừa phải, rồi định đâm xuống.可能是我的杀意被娃娃鱼感觉到了,它嗖地往前挪出几公分,与之同时,我心一狠,军刺一扎,刺在了它的尾巴上。Có lẽ sát ý của tôi đã bị con cá cóc cảm nhận được, nó vút một tiếng nhích về phía trước mấy centimet. Cùng lúc đó, tôi hạ quyết tâm, con dao găm đâm xuống, trúng vào đuôi nó.那东西尾巴上全是肉,疼得卷了起来,力气果然非常大,军刺几乎脱手。Đuôi của thứ đó toàn là thịt, đau đến mức cuộn lại. Sức lực quả nhiên rất lớn, con dao găm gần như tuột khỏi tay tôi.我追上去,一把抓住上面的手电筒,但在水下阻力太大,一下没抓实,娃娃鱼竟把尾巴直接挣断,飞也似的游出去六七米,这一次不再停下来,往砖室的另一头逃去。Tôi đuổi theo, chụp lấy chiếc đèn pin trên người nó. Nhưng sức cản dưới nước quá lớn, tôi không nắm chắc được. Con cá cóc lại giãy đứt phựt cái đuôi của mình, bơi nhanh như bay ra xa sáu bảy mét. Lần này nó không dừng lại nữa, mà chạy trốn về phía đầu kia của phòng gạch.没了尾巴,它的速度明显慢了下来。Mất đuôi, tốc độ của nó rõ ràng chậm lại.我摆动脚蹼往里追,好几次他都差点被抓到,但人在水里,这样一抓的精确度实在太低,总是在自认肯定能得手的情况下被它逃脱。Tôi quạt chân vịt đuổi theo vào trong. Nhiều lần nó suýt bị bắt, nhưng con người ở dưới nước, độ chính xác của cú vồ này quá thấp. Tôi luôn bị nó thoát khỏi trong tình huống tự tin rằng chắc chắn sẽ tóm được.如此连追几十米,我先前已在水下潜了这么长时间,体力就跟不上了。Cứ thế đuổi theo liên tục mấy chục mét, tôi đã lặn dưới nước lâu như vậy, thể lực không còn theo kịp nữa.我死死地咬住呼吸器,用手拉住铁架子借力,勉强跟着。Tôi cắn chặt ống thở, dùng tay kéo giá sắt để lấy đà, cố gắng bám theo.青光忽然一个转弯不见,顺着消失的弧度扑过去,就见墙壁上的青砖空出一个洞,伸手进去,立刻摸到手电筒,但却怎么抓也抓不出来。Ánh sáng xanh đột nhiên rẽ một góc rồi biến mất. Tôi bơi theo đường cong biến mất đó, thì thấy trên bức tường gạch xanh có một cái lỗ. Tôi thò tay vào, lập tức chạm được vào chiếc đèn pin, nhưng làm thế nào cũng không thể lôi ra được.娃娃鱼一定死死抓住了里面的砖壁。Con cá cóc chắc chắn đã bám chặt vào bức tường gạch bên trong.我蹬起双脚。顶住砖石的两边,用全部的体重往后翻,就觉手上猛然一松,手电筒被拔了出来。Tôi đạp mạnh hai chân. Chống vào hai bên gạch đá, dùng toàn bộ trọng lượng cơ thể lật ngược về phía sau, cảm thấy tay đột nhiên nhẹ bẫng, chiếc đèn pin đã được rút ra.整个人紧接着一个跟斗甩翻出去,撞在后面的铁架子上。Ngay sau đó, cả người tôi bị văng lộn ngược ra sau, đâm vào giá sắt phía sau.好不容易稳住姿势,往手里一看,绑着手电筒的绳子,原来正是胖子旅行包上的尼龙丝,那东西吃不了力气,断了。Mãi mới ổn định được tư thế, tôi nhìn vào tay mình. Sợi dây buộc chiếc đèn pin, hóa ra chính là dây nylon trên túi du lịch của Bàn Tử. Thứ đó không chịu được sức mạnh, đã bị đứt.再用探灯照了照洞,娃娃鱼窝在里面,看样子是不肯出来了,我也懒得再理,急忙把手电筒放在探灯下,想看看胖子是否另外做了手脚。Tôi dùng đèn pin chiếu vào cái lỗ. Con cá cóc đang co mình bên trong, có vẻ không chịu ra nữa. Tôi cũng lười quan tâm, vội vàng đặt chiếc đèn pin dưới ánh đèn pin của mình, muốn xem Bàn Tử có giở trò gì khác không.那上面果然刻了几个字:SOS,跟着虹吸潮。Quả nhiên trên đó có khắc mấy chữ: 【SOS, đi theo ống siphon.】翻过来,后面还有一行小字,但已看不清楚了。Lật lại, phía sau còn có một hàng chữ nhỏ, nhưng đã không còn nhìn rõ nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz