ZingTruyen.Xyz

Dao Mo But Ky Full Ngoai Truyen

Chương 1. Tin tức mới

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi hôn mê suốt ba ngày ròng rã, đến khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Khi vừa mở mắt ra tôi chẳng nhớ được gì, chỉ cảm thấy đất trời cứ xoay mòng mòng, không ngừng nôn mửa, đầu óc choáng váng.

Hai ngày sau, bệnh tình của tôi mới dần dần khá lên một chút, thế nhưng khả năng phát âm đã hoàn toàn biến mất. Dù tôi cố gắng nói cái gì đi chăng nữa, âm thanh phát ra cũng chỉ là những tiếng kêu quái gở. Tôi còn tưởng đầu óc mình bị va đập quá mạnh gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh ngôn ngữ nên cực kỳ lo lắng, nhưng bác sĩ lại nói đây chỉ là di chứng do não bị chấn động mạnh mà thôi. Mãi cho đến ngày thứ tư, tôi mới có thể miễn cưỡng mở miệng hỏi bác sĩ xem tôi đang ở nơi nào. Bác sĩ nói đây là bệnh viện hội Chữ Thập Đỏ ở Bi Lâm, Tây An. Tôi được mấy người cảnh sát khiêng về, cụ thể tình trạng lúc họ phát hiện ra tôi thế nào thì bác sĩ cũng không rõ, chỉ nói đại khái là tôi bị gãy những mười hai cái xương, hẳn là do ngã từ trên cao xuống.

Ngực và tay trái của tôi bọc đầy thạch cao cho nên tôi cũng chẳng biết mình bị thương nặng đến mức nào. Nghe bác sĩ kể, tôi mới hay mạng mình vẫn còn lớn lắm. Tôi hỏi, lúc nào mới có thể xuất viện, bác sĩ chỉ nhìn tôi cười cười, nói trong vòng mười ngày nửa tháng tôi đừng hòng xuống giường.

Đến tối, người cảnh sát đã mang tôi về đây đến thăm tôi, mang theo cả một giỏ hoa quả. Tôi lại hỏi câu cũ. Giống như bác sĩ, anh ta cũng không biết trả lời ra sao, chỉ nói có mấy người thôn dân ở Lam Điền tìm thấy tôi bên bờ một con suối. Khi ấy tôi được đặt nằm trên một cái bè trúc, những vết thương trên người đã được sơ cứu. Bác sĩ còn bảo, nếu lúc ấy không được sơ cứu, tôi đã chết từ đời thuở nào rồi.

Tôi lấy làm lạ. Những ký ức cuối cùng của tôi là khi chìm vào đáy nước, theo logic thì cùng lắm cũng chỉ nằm vật ra bên bờ sông thôi, sao lại nằm trên bè trúc được cơ chứ? Thứ hai, Lam Điền là vùng cách Giáp Tử Câu phải đến bảy mươi tám mươi dặm đường, chẳng nhẽ, bọn tôi đi men theo con đường dưới lòng sông, bất giác đã đi cả một quãng dài như vậy rồi sao?

Tôi ậm ừ chém bừa cái lý do một mình lên núi chơi sảy chân rơi xuống vực, nói ngàn vạn lần tạ ơn người cảnh sát đã cứu tôi về, sau đó lôi điện thoại ra gọi Vương Minh ngay lập tức. Nhắn cậu ta đến Tây An một chuyến, mang theo ít tiền với quần áo cho tôi. Ngày hôm sau Vương Minh đến nơi, tôi lấy tiền thanh toán viện phí với thuốc men, sau đó mua một chiếc di động và một cái laptop.

Tôi hỏi Vương Minh mấy chuyện làm ăn gần đây thế nào. Cậu ta nói, không có gì quan trọng, chỉ có cha tôi đang ráo riết tìm tôi. Tôi nghĩ chắc là lâu lắm rồi không liên lạc gì nên ông cụ lo lắng. Vì thế tôi báo về nhà một cái tin bình an, nhưng lúc đó cha tôi lại không có nhà. Tôi nói chuyện với mẹ vài câu, tiện hỏi về chú Ba, nhưng lại chẳng có tin tức gì.

Xem ra mọi thứ vẫn y nguyên như trước khi tôi tới đây. Tôi cảm thán một tiếng.

Vài ngày tiếp theo, trong khi đang buồn chán muốn chết, tôi chợt nhớ đến lão Dương. Trong lòng lại chua xót, tôi bèn ngồi trên giường bệnh, lấy bộ trang phục leo núi đã nát tươm mà tôi mặc lúc rơi xuống núi ra, tìm cuốn sổ nhật ký của lão Dương. Cuốn nhật ký vẫn còn đó nhưng đã bị thấm nước nên chẳng còn nhìn rõ chữ gì. Tôi ráng căng mắt ra đọc một hồi. Vẫn chẳng đọc được gì, tôi đành lấy điện thoại, lên mạng giết thời gian.

Tôi tìm kiếm rất nhiều tư liệu, nhưng thông tin về đồ cổ ở trên mạng không nhiều. Tôi miêu tả sơ lược lại hình dáng cây thanh đồng trong đầu, gửi cho vài người bạn xem, một lát sau nhận được hồi âm, đa số đều không biết đó là thứ gì. Hơn nữa, bọn họ nghe miêu tả của tôi cũng không tin, chỉ có vài email là thu hút tôi nhất.

Trong số đó có một email từ Mỹ gửi tới, là một người bạn của cha tôi. Trò chuyện với tôi một hồi, ông ta viết trong mail rằng có một loại cây thanh đồng gọi là "Sáo trụ" bởi hình dạng nó trông như một cây sáo – loại sáo thời cổ. Năm 1984, người ta  đã phát hiện ra một cây như thế ở một khu mỏ tại Phàn Chi Hoa, nhưng không lớn như tôi miêu tả, chỉ dài có một đoạn, phần cắm sâu dưới lòng đất cũng đã hoàn toàn rỉ sét.

Cho đến giờ vẫn chưa có một tài liệu lịch sử nào cho biết thứ này dùng để làm gì, tuy nhiên căn cứ vào Sơn Hải kinh và những tài liệu chép lại từ truyện thơ của một số dân tộc thiểu số, thứ này với "Địa long (rắn)" thời cổ có liên quan đến nhau.

"Nến Cửu Âm" hẳn là một loại rắn sinh sống dưới lòng đất sâu, do quá nhiều năm chui rúc trong khe đá chật hẹp sâu hoắm, không có cơ hội nhìn thẳng cho nên con mắt bị biến đổi giống như cá thờn bơn vậy. Người xưa lấy máu tươi để dụ nó chui lên từ dưới lòng đất, sau đó bắn chết, làm thành đèn nến. Nghe thì thật đáng trách, nhưng vào thời đó nguồn sáng lâu dài là một thứ cực kỳ quý giá, đặc biệt với những người sinh sống về đêm hoặc phải sống trong những hang động quanh năm tối đen như hũ nút.

Tôi thấy ông ta phân tích cũng có vẻ hợp lý, có điều tôi không hiểu nổi vì sao hễ động đến cái "trụ" kia là lập tức xuất hiện loại năng lực vừa kỳ diệu lại vừa khủng khiếp ấy. Tôi gửi hồi âm, hỏi xem trong lịch sử đã từng xảy ra những chuyện kỳ lạ tương tự hay chưa?

Ông ta gửi hồi âm nói vẫn còn một quyển sách đã hư hại nhiều, đó là quyển bút ký dạng tiểu thuyết, bên trong ghi chép lại một sự việc đã xảy ra vào năm Càn Long thời nhà Thanh. Năm đó ở một khu mỏ vùng Tây An đã đào được một cái hộp có hoa văn hình rồng bằng đá xanh trắng. Hoàng đế Càn Long mở ra xem, ngay tối hôm đó đã bí mật triệu mấy vị đại thần vào cung, luận bàn đến khuya. Sau đó, cung Càn Thanh cháy. Mấy vị đại thần kia, ngoại trừ một người rất nổi danh ra, còn đâu toàn bộ đều không được chết già mà đều bị giết một cách thần bí.

Tôi xem khoảng thời gian, đại khái cũng trùng với thời gian sự việc được ghi lại trong "Hà mộc tập" của Lý Tỳ Bà, hẳn là hai chuyện này có liên quan với nhau. Xem chừng người cuối cùng đào ra hộp hoa văn hình rồng đá trắng xanh và những người biết chuyện này đều đã bị diệt khẩu, hoàng đế hạ quyết tâm lớn đến thế chỉ để bảo vệ một bí mật, cái hộp hoa văn hình rồng đá trắng kia rốt cuộc là thứ gì? Liệu có liên quan đến lai lịch của cây cổ thụ thanh đồng không?

Tôi lại gửi mail hỏi ý kiến ông ta lần nữa, ông ta chỉ hồi âm đúng một câu: muốn biết phải đào sâu thêm nữa mới được.

Tôi cười khổ một tiếng, biết đây là việc khó khả thi. Ai mà biết cái cây kia còn mọc sâu đến đâu chứ, biết đâu năm đó người đúc ra thứ này phải mất đến mấy thế kỷ, cho dù muốn đào cũng chẳng biết đào đến bao giờ mới xong.

Còn một email khác là của chú Hai gửi tôi. Chú bảo, khi dân tộc thiểu số kia bị ảnh hưởng bởi văn hóa và phong cách trang trí thời Tây Chu thì giao lưu giữa các dân tộc rất hạn hẹp. Hơn nữa, cách thức liên lạc và chuyển phát thông tin thời đó rất kém phát triển, nên hẳn là có một thời kì bị trì trệ. Nói cách khác, thời gian tôi phỏng đoán dễ chừng là quá sớm, dựa theo quy luật chung, khi dân tộc thiểu số kia phát triển thì ở Trung nguyên hẳn đã sang cuối thời Tần rồi.

Vào thời gian đó, hầu như mọi hoạt động của dân tộc thiểu số này đều na ná việc thi công lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Bọn họ đi săn Nến Cửu Âm có thể là để tinh luyện "Mỡ rồng", mục đích hẳn cũng tương tự với việc luyện đan tiến cống hoàng đế. Hơn nữa, khi thăm dò cả khu, giống như lăng Tần Thủy Hoàng, tầng dưới cùng có vị thế đứng đầu và cũng có vật thể kim loại khổng lồ. Theo lý mà nói, kỹ thuật luyện kim thời đó chưa đủ để hoàn thành một công trình vĩ đại như thế. Người thi công hẳn phải là người ngoại lai, đến từ một dân tộc có trình độ kỹ thuật luyện kim đặc biệt phát triển.

Chú Hai là fan trung thành của Tần Thủy Hoàng, cái gì chú cũng chém thành chuyện được, tôi không cho suy đoán của chú là đúng.

Một tháng sau, tôi xuất viện. Về đến nhà, dọn dẹp một chút, tôi mới bắt đầu điều chỉnh lại tâm tình của mình. Trở về sinh hoạt bình thường một lần nữa. Tôi dọn lại cái hòm thư đầy ứ đến mức suýt bung ra, xếp riêng một số tạp chí và báo giấy, thế rồi tôi tìm được một phong thư chuyển phát nhanh không kí tên.

"Lão Ngô,

Có đoán ra tôi là ai không?

Phải, tôi chưa chết. Hay cũng có thể nói, tôi vẫn còn sống.

Rất xin lỗi vì đã lôi cậu vào mớ rắc rối này, nhưng dù sao cậu cũng là người tôi tin tưởng nhất, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Bây giờ mọi chuyện đều đã xong xuôi cả rồi. Quan hệ của chúng ta, chắc cũng phải kết thúc ở đó thôi. Tôi rất vui vì được làm bạn với cậu, nhưng bây giờ đã chẳng còn gì là quan trọng nữa.

Cậu rất muốn biết ba năm trước đã xảy ra chuyện gì phải không?

Ba năm trước, tôi với mấy thằng bạn đến Tần Lĩnh làm ăn. Chúng tôi đã căn cứ vào truyền thuyết của dân bản xứ, tìm ra hang động dưới gốc cây đa trên đỉnh núi. Bọn tôi bàn tính với nhau, chuẩn bị mạo hiểm chui xuống thăm dò bên dưới. Toàn bộ quá trình cậu đã biết rồi, cho đến khi tôi bị nhốt trong hốc đá.

Lúc ấy, tôi đã vô cùng tuyệt vọng. Tuy tôi không chết ngay lập tức, nhưng sự sống đối với tôi là một điều hết sức đáng sợ. Vĩnh viễn sống trong một xó chật hẹp, trong một hốc đá tối đen nằm sâu trong núi lớn, vĩnh viễn không có ngày thoát ra. Nỗi đau đớn khổ sở này, chắc cậu cũng đã nếm thử rồi.

Tôi nằm trong bóng tối suốt bốn tháng, bốn tháng ấy trôi qua không khác gì địa ngục. Nhưng trong khoảng thời gian này, tôi đã suy nghĩ không ngừng và rồi nhận ra loại năng lực này có liên hệ với tiềm thức. Ví dụ như, tôi muốn mở một cánh cửa trên tảng đá, tôi phải thuyết phục được bản thân mình tin rằng trên tảng đá có một cánh cửa, bằng không dù có nghĩ đến nát óc thì cửa cũng không xuất hiện.

Con người sao có thể lừa dối được tiềm thức của mình. Cho nên, muốn sử dụng năng lực này thì nhất định phải có sự dẫn dắt, cái này rất khó. Tôi đã nói với cậu rồi, nếu quá trình dẫn dắt thất bại hoặc xuất hiện sai sót thì sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi thứ cậu đã hiện thực hóa ra là gì, cực kỳ đáng sợ.

Tôi không ngừng cố gắng, dần dần cũng nắm được một vài bí quyết. Thế nhưng trong lúc đó, tôi lại phát hiện loại năng lực này sẽ dần dần suy giảm theo thời gian, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Cảm giác này rất rõ ràng, giống như thân thể dần dần cảm thấy rã rời vậy. Tôi hiểu rằng nếu không mau mau tìm được cách thoát ra ngoài, rất có thể mình sẽ bỏ mạng nơi đây.

Tôi rơi vào đường cùng, quyết định thử dùng năng lực này phục chế một bản sao của chính mình. Không ngờ thử nghiệm lại thành công, chính tôi cũng thấy hoảng sợ, thoáng cái tôi bỗng phát hiện ra mình đã ở bên ngoài sơn động.

Khi ấy, tôi không hề ý thức được tôi chỉ là bản phục chế, bởi lẽ tôi và bản thể đều sở hữu những ký ức giống hệt nhau. Cho nên khi hắn ta gọi tôi, tôi hoàn toàn không thừa nhận tôi chỉ là bản phục chế. Hắn bắt đầu chửi tôi, nói tôi muốn thay thế hắn tồn tại trên thế giới này, nói muốn tôi biến mất. Tôi rất sợ hãi, tôi đã nghĩ người trong động kia hẳn là quái vật, nên mặc cho bản thể của mình kêu khóc trong ấy, tôi đã tìm thuốc nổ, khiến hang động này hoàn toàn sụp xuống.

Trên thực tế, tôi đích xác biết mình chỉ là bản phục chế, nhưng sâu trong tiềm thức tôi lại không muốn tin vào chuyện này. Cho nên tôi đã rơi vào tình trạng tổn hại nặng nề, tôi tự tay giết chính bản thể của mình, sau đó lại tự ám thị mình rằng tôi chỉ giết đi một kẻ thay thế.

Năng lực mà cây thanh đồng tạo ra có thời gian rất ngắn. Bởi vậy tôi đã bẻ một cành cây thanh đồng, dùng năng lực để thoát ra từ dưới chân cây thanh đồng. Tôi đã mang theo một bộ phận của cây thanh đồng để có thể sử dụng năng lực đó lâu hơn một chút, như vậy tôi mới có thể trốn ra đến thế giới bên ngoài. Về sau thực tế đã chứng minh suy nghĩ của tôi là chính xác, tôi ra đến bên ngoài, nơi chúng tôi đã đào đường vào trước đây. Tôi lại sợ mấy cành cây Thanh đồng chỉa ra dễ bắt mắt nên đem chôn nó vào lòng đất, sau đó trở lại Tây An tìm nơi bán cành thanh đồng đã bẻ.

Đáng tiếc khi đang trao đổi, tôi lại bị cảnh sát chìm bắt tại một hàng đồ cổ. Chuyện sau đó cậu đã biết rồi, khi về đến nhà thì mẹ tôi đã mất. Việc này, tôi không lừa cậu.

Còn một việc nữa tôi phải nói cho cậu biết, sử dụng loại năng lực này không phải không có cái giá của nó. Trí nhớ của tôi sau đó rất kém, có nhiều việc phải ghi lại thì mới nhớ nổi, đó chính là di chứng của việc sử dụng năng lực này. Trên đường đi tôi vốn dàn xếp cho cậu rất tốt, khiến cậu vô tình giúp tôi hoàn thành chuyến thám hiểm này, nhưng tiếc là chuyện ba năm gần đây tôi đã quên rất nhiều, thậm chí ngày đó thoát ra bằng cách nào tôi cũng không còn nhớ rõ ràng, cho nên sơ hở chồng chất. Tôi đoán nếu sử dụng nó thêm hai ba năm nữa, tôi sẽ mất đi toàn bộ ký ức.

Trên người cậu cũng có loại năng lực kỳ lạ này. Tôi không rõ cậu có bị ảnh hưởng hay không, nhưng cậu phải chú ý cẩn thận. Theo tính toán của tôi, loại năng lực này có lẽ sẽ lưu lại trên người cậu rất nhiều năm, nhưng cực kì yếu, hầu như không gây cảm giác gì.

Lão Dương."

Tôi xem hết phong thư rồi thở phào một cái, không biết nói gì cho phải. Trong thư còn có một tấm ảnh chụp, đó là hình của hắn và mẹ đang ngồi bên bàn, phía sau là biển rộng, có lẽ là đi ra nước ngoài. Mẹ hắn vẫn còn rất đẹp, tuổi còn trẻ, đứng chung với hắn trái lại trông giống một đôi tình lữ hơn. Tôi nhìn đi nhìn lại vẫn thấy trên gương mặt người mẹ có một luồng yêu khí, một vẻ dữ tợn không sao tả rõ được, chắc là do ảnh hưởng tâm lý.

Thời gian cứ thế trôi qua, không biết mùa đông đã đến tự bao giờ. Tôi rúc trong phòng điều hòa, lười biếng ngủ gà gật suốt cả buổi chiều. Nằm trên ghế dựa trong nội đường "Tây linh ấn xã", hai chân lạnh như băng, tôi chẳng biết làm gì, đang nửa tỉnh nửa mơ bỗng Vương Minh bước vào báo: "Lão đại, có người tìm."

Bấy giờ tôi mới miễn cưỡng phản ứng, ngáp một cái, bụng bảo dạ đã vào tiết Tam cửu thiên[1] rồi mà cũng có kẻ đến tiệm đồ cổ, sao mà nhiệt tình dữ. Mà thôi, dù gì cũng là chuyện làm ăn, tôi đứng lên, xoa nắn mặt mày, chấn chỉnh tinh thần rồi đi ra ngoài.

([1] tiết Tam Cửu Thiên: thời điểm lạnh nhất trong mùa đông.)

Điều hòa của phòng ngoài công suất khá nhỏ, một cơn gió lạnh thổi qua khiến tôi bất giác rùng mình. Người tới thì ra là cô bé thủ hạ của chú Hải ở Tế Nam, đang run bần bật giữa tiết trời đông lạnh. Tôi thầm nghĩ chắc con bé mang chi phiếu đến cho mình đây, trong lòng ấm lên một tí, liền gọi Vương Minh pha ấm trà. Tôi hỏi han: "Sao rồi nhóc, chú Hải kêu nhóc tới hả?"

Cô nhóc tên Tần Hải Đình, là thân thích của chú Hải, mới mười bảy tuổi đã là một tay sành sỏi trong giới đồ cổ. Nó gật gật đầu, đáp: "Ôi mẹ ơi, sao Hàng Châu còn lạnh hơn cả phương bắc bọn em nữa hả giời."

Vương Minh cười bảo: "Phía nam tiết trời khô ráo nên đã rét là rét buốt, hơn nữa Tế Nam cũng không được tính là phương Bắc nha."

Tôi nhìn Tần Hải Đình răng đánh lộp cộp, liền kéo cô bé vào nhà trong. Bên trong có điều hòa ấm áp, lại đưa thêm cho nó một túi giữ nhiệt, rồi hỏi: "Nhóc mày cũng sợ lạnh ghê, sao rồi, ấm lên tí nào chưa?"

Cô bé uống liền mấy hớp trà nóng, rồi ngồi trong phòng duỗi tay duỗi chân, "Khá hơn chút rồi. Người ta bảo Hàng Châu đẹp thế này đẹp thế kia, chú em chẳng cho tới mà em còn cố giành đi, nào ngờ lại lạnh cắt da thế này. Ai da, từ giờ về sau đừng hòng bảo em tới đây lần nữa."

Tôi hỏi: "Thế chú nhà mày sai mày đến đây làm gì? Sao không gọi điện báo trước một tiếng."

Tần Hải Đình cởi khăn quàng cổ xuống, móc một cái phong bì từ trong cái ví da, nói: "Đương nhiên là có chính sự, nè, tiền mặt, chi phiếu đủ cả. Tiền bán miếng Ngư nhãn thạch đó."

Quả nhiên đúng như tôi dự đoán. Lúc nhận tiền tôi đếm lại một lần, không thừa không thiếu đồng nào mới bỏ vào túi áo, nói: "Thay anh cám ơn chú nha."

Cô bé lại lấy ra một tấm thiếp mời, đưa cho tôi: "Mai mốt chú Hải nhà em sẽ đến Hàng Châu tham gia một hội giám định đồ cổ. Chú bảo anh cũng đi theo luôn, có chuyện quan trọng cần bàn với anh."

Tôi hỏi: "Mai mốt? Anh không chắc là lúc ấy sẽ rảnh đâu. Sao không nói chuyện trên điện thoại luôn mà phải thần bí thế?" Thực ra là vì tôi không muốn đi. Giám định đồ cổ là công việc rất ngán ngẩm, đối với người trong nghề chẳng qua chỉ là mấy lão già tán chuyện phiếm với nhau thôi, chứ thực chất làm quái gì có lắm điển cố điển tích đến thế. Đồ thật hay giả chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay rồi.

Tần Hải Đình xáp lại gần, hạ giọng thì thầm vào tai tôi: "Chú em bảo, chuyện này có liên quan đến con xà mi đồng ngư kia, không đi là hối hận đó."


Chương 2. Pháo hoa năm mới 2007

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Quan hệ của tôi với lão Hải chẳng tốt đẹp đến mức không giấu nhau điều gì. Bình thường thỉnh thoảng cũng cùng nhau làm ăn vài mối, khi mới quen biết sơ sơ tôi gọi ông ta một tiếng "chú" cho ông ta chút thể diện. Thế mà bây giờ tự dưng ông ta muốn tiếp cận tôi thì quả là có vấn đề. Nghĩ thì thế, nhưng tôi không biểu lộ ra ngoài trước mặt cô nhóc kia. Thuận miệng đáp, tôi hỏi: "Sao thế? Ổng tra được tin tức gì à?"

Tần Hải Đình cười xấu xa: "Chú em bảo, đến lúc đó hẵng nói anh nghe, em cũng chẳng biết là chuyện gì xảy ra đâu, xin đừng dò hỏi nữa."

Tôi chửi thầmmột tiếng trong bụng, cái lão già gian thương này hẳn là muốn lợi dụng kiếm chác gì đó đây.

Sang ngày thứ ba, quả nhiên lão Hải đến nơi. Tôi đón ông ta từ bến tàu hỏa, dẫn ông ta ra đường lớn tìm quán rượu. Lúc ở trên xe, tôi hỏi ông ta rốt cục đã nghe ngóng được tin tức gì, ổng mà dám lừa gạt tôi, nhất định tôi sẽ không tha cho ổng.

Lão Hải lạnh đến run lập cập cả người, nói: "Phép vua còn thua lệ làng, trên địa bàn của cậu tui sao dám lừa cậu cái gì. Cơ mà chúng ta đừng nói chuyện ở chỗ này, tui sắp chết cóng rồi đây."

Tôi đưa ông ta đến một quán rượu, cất hành lý, tìm một bàn ngồi xuống. Sau đó gọi bình rượu nóng, uống mấy chén lót dạ, cuối cùng cũng ấm người lên được một chút.

Tôi nhìn ông ta nốc rượu ừng ực, biết ông ta no nê rồi, mới hỏi: "Được rồi, đã ăn uống no say, bây giờ thì nói đi, rốt cục ông đã tra ra chuyện gì rồi?"

Ông ta chép chép miệng, cười hì hì, rồi lấy từ trong túi hành lý ra một xấp giấy, vỗ vỗ lên bàn: "Xem cái này đi."

Tôi cầm lên xem. Đó là một tờ báo cũ đã ố vàng, xem ngày tháng mới biết nó xuất bản năm 1974. Trên đó có dấu khoanh tròn một mẩu tin, là một bức ảnh đen trắng. Tuy nhìn không rõ cho lắm, nhưng tôi vẫn nhận ra trên ảnh chụp là một con xà mi đồng ngư, xung quanh còn có nhiều văn vật lẻ tẻ khác, hình như là một loại Phật châu tràng hạt gì đó.

Tuy nhiên hình dáng con cá này không giống với cái tôi có và cái của chú Ba. Đường vào ngôi mộ dưới đáy biển đặt một pho tượng, trên trán tượng chạm khắc một phù điêu hình ba con cá, con này hẳn là con nằm trên cùng của bức phù điêu. Nói vậy, tức là cả ba con cá này đều có thật. Tôi hỏi lão Hải: "Sao ông tìm được tờ báo này vậy? Đằng sau có bí ẩn gì chăng?"

Lão Hải nói: "Trong nhóm tui gần đây có một ông chủ lớn chuyên mua bán báo chí cũ, cậu biết đấy, kẻ có tiền muốn gì mà chả được. Cậu xem, đây là báo văn hóa Quảng Tây năm 74. Hắn muốn tui tìm đủ số báo từ tháng giêng đến tháng mười hai, tui phải lặn lội suốt hai tháng trời mới gom góp đủ đấy. Mấy hôm gần đây cần phải giao hàng, lúc kiểm tra lại, vừa nhìn lướt qua lại thấy ngay bản tin này. Cậu nói xem có khéo không cơ chứ? Tờ báo này ra năm 74, sang năm 75 là ngừng rồi, rất hiếm trên thị trường nha. Số cậu may thật đấy, tui mà không để ý chút nữa là xong hết luôn đó."

Tôi liếc xuống nhìn chăm chú, phía dưới ảnh chụp là một mẩu tin ngắn dài khoảng ba trăm chữ, đại ý cá này tìm được ở Quảng Tây, trong một tòa tháp của một ngôi chùa Phật. Trải qua năm tháng mài mòn, đến một ngày ngọn tháp kia tự nhiên sụp xuống, lúc thu dọn đống phế tích người ta phát hiện ra một địa cung bên dưới. Trong địa cung có mấy quyển kinh thư đã ngấm nước nát rữa gần hết cùng một rương báu vật, trong rương lại chỉ có duy nhất con cá này. Các chuyên gia suy đoán rằng nó là di vật của tăng nhân nửa cuối thời Bắc Tống.

Bắc Tống? Tôi châm một điếu thuốc, dựa người vào ghế, trong lòng âm thầm suy tính. Giống xà mi đồng ngư này, con thứ nhất xuất hiện trong hầm mộ chư hầu cuối thời Chiến quốc, con thứ hai tìm thấy ở ngôi mộ dưới đáy biển thời cuối Nguyên đầu Minh, con thứ ba lại xuất hiện trong địa cung một ngôi Phật tháp thời Bắc Tống. Thế quái nào mà không gian thời gian lại chẳng liên quan gì đến nhau thế này.

Tôi lật giở mấy trang khác của tờ báo mới biết chỉ có mỗi mẩu tin về con xà mi đồng ngư thôi, nội dung còn lại cũng chẳng có gì mới mẻ. Tôi vẫn không biết gì về con cá này cả, nghĩ cũng thấy phiền muộn, bèn đứng lên.

Lão Hải nhìn vẻ mặt của tôi, mở lời: "Cậu đừng nhụt chí, tui còn nói chưa xong. Câu chuyện phía sau mới là đặc sắc nè."

Tôi nhíu mày: "Là sao? Lẽ nào tờ báo này còn có thể moi móc biến hóa ra thêm thông tin gì nữa à?"

Lão Hải gật đầu, nói: "Ây dà, nếu có mỗi chuyện tờ báo thôi thì tui cần gì một thân một mình lết xác đến Hàng Châu tìm cậu, đúng không? Chuyện này ấy, còn phải kể từ lúc bắt đầu. Được rồi, cậu cũng đã qua lại quen biết nhiều, vậy có biết một người gọi là Trần Bì A Tứ không?"

Tôi nghe xong khẽ giật mình. Trần Bì A Tứ là một thổ phu tử nổi danh ở Trường Sa năm xưa, một tay sành sỏi, nhân vật tầm cỡ trong giới cùng với ông nội tôi. Nghe nói hiện giờ đã hơn chín mươi tuổi, kể từ khi mắt bị mù mười năm về trước đã không còn xuất hiện nữa, không rõ sống chết ra sao, chỉ biết ông nội tôi vẫn hay nhắc đến tên người này, có lẽ danh tiếng vẫn còn rất oách.

Có điều người này lại không giống với ông nội tôi. Ông ta là kẻ sống dựa vào lưỡi đao, không chỉ đơn giản trộm mộ thôi, mà bất cứ chuyện phóng hỏa giết người gì, miễn là có tiền, ông ta đều nhúng tay vào. Vì vậy thời trước giải phóng, người ta vẫn thường gọi ông ta là Thế Đầu A Tứ, ý nói ông ta giết người dễ như cạo đầu cắt tóc vậy, không hề do dự chút nào.

Nghe lão Hải nhắc tên người này, tôi có hơi bất ngờ. Bởi lẽ người này không phải nhân vật lớn cùng thời với bọn tôi, cho đến bây giờ tôi còn chưa gặp ông ta lần nào, chẳng nhẽ con cá này lại có liên quan đến ông ta? Câu chuyện phía sau xà mi đồng ngư, cho dù không liên quan đến tôi, nhưng chắc chắn cũng đáng để nghe kể một lần.

Lão Hải thấy tôi im lặng không nói câu nào, tưởng tôi không biết, bèn tiếp: "Chuyện của Trần Tứ gia cậu không biết cũng phải, ông ta vốn không phải người cùng thế hệ với chúng ta. Nhưng tui phải nói cậu hay, con xà mi đồng ngư trong tờ báo này là do chính tay ông ta lấy từ trong địa cung Phật tháp ra đấy. Sự tình không hề đơn giản như trong tờ báo nói đâu." Nói đoạn ông ta liền kể lại chuyện năm xưa, có giản lược đi đôi chút.

Hóa ra năm 1974, Trần Bì A Tứ cũng đã gần sáu mươi tuổi. Khi ấy mắt của ông ta còn chưa bị mù, mà đó lại là thời kỳ mười năm loạn lạc. Do năm xưa, trước giải phóng, ông ta đã từng làm trung đội trưởng trong quân của Quốc Dân Đảng, sau lại có mấy năm làm thổ phỉ, cho nên thân phận ông ta là bất hợp pháp, chỉ cần bắt được là có quyền giết ngay tại chỗ. Vì vậy, ông ta chỉ có thể hoạt động tại vùng dân tộc thiểu số ở Quảng Tây, ngay cả thị trấn cũng không dám tiến vào nửa bước.

Vào đầu những năm Tứ cựu[1], rất nhiều di tích cổ đã bị đập phá gần hết. Trần Bì A Tứ đi qua rất nhiều địa phương ở Quảng Tây, bởi vì Quảng Tây thời cổ không được coi là thuộc Trung Nguyên, cũng không có mấy cổ mộ, cho nên trong suốt những năm đó, ông ta có thể nói là sống cũng hiền lành, trung thực. Nào ngờ năm ấy khi ông ta vừa kéo xe đòn chở hàng qua chốt kiểm kê lại tình cờ nói chuyện phiếm với mấy người dân tộc Mèo. Mấy người đó uống rất nhiều, có nhắc đến chuyện tòa tháp của ngôi chùa trong núi Con Mèo đã sụp, gây ra tiếng động rất lớn, cả nền đất cũng sụt xuống, lún thành một cái hố sâu hút. Đêm tòa tháp bị sụp, nhiều người còn nghe được tiếng kêu thảm thiết rất kỳ dị.

Trần Bì A Tứ nghe vậy thì lấy làm lạ, ông ta đã đến núi Con Mèo rất nhiều lần, ngôi chùa ở đó được tu sửa vô cùng kiên cố, sao lại có chuyện tòa tháp chùa bị sụp được? Hỏi ra tỉ mỉ mới hay, tòa tháp này cũng không hẳn là ở trên núi Con Mèo, mà nằm ngay ở rìa trung tâm của một ngọn núi gọi là "Núi Phật nằm". Nơi này rất kỳ quái, bốn phía xung quanh đều là xóm làng, nhưng chính giữa lại là một vùng lòng chảo diện tích chừng hơn mười km vuông, độ cao so với mực nước biển rất thấp, bên trong cây cối rậm rạp, tán cây che phủ toàn bộ bầu trời. Thôn xóm nằm trên vách núi, rừng cây ở dưới vách núi, khoảng cách chênh lệch chỉ hơn một trăm mét nhưng lại là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa cũng không có đường từ thôn xóm xuống phía dưới, muốn xuống vùng trũng này chỉ có cách dùng dây thừng đu xuống.

Dân bản xứ nói chắc chắn là có đường vào vùng lòng chảo này, nhưng vì cây cối ở đây quá rậm rạp, đi lại khó khăn. Trước đây người Mèo thường xuống đó để săn thú và hái thuốc, nhưng thường những người vào trong đều biến mất một cách kỳ lạ, cho nên nếu không có việc quan trọng thì chẳng ai muốn xuống dưới đó làm gì.

Tháp cổ kia được xây dựng đúng ở nơi này. Gần như nằm ở ngay trung tâm của vùng lòng chảo, bình thường mọi người đứng từ trên vách núi trông xuống chỉ có thể nhìn thấy xa xa mái nhọn của ngọn tháp nhô lên giữa các tán cây rậm rạp. Hơn nữa, ngọn tháp bị cây cối dây leo bám đầy, phần bên dưới không thể nhìn rõ được. Người Mèo nói hơn mười đời trước đã biết nơi này có một ngọn tháp, thế nhưng không ai nghĩ đến việc trèo xuống dưới đó xem, cho đến giờ đã thành thông lệ rồi. Một ngày gần đây bỗng dưng có tiếng nổ lớn, chạy ra nhìn đã không còn thấy mái nhọn của ngọn tháp nữa, bấy giờ mới biết nó bị sụp. Về phần ngôi tháp cổ này, dân bản xứ có rất nhiều giai thoại. Theo lời một người già kể lại, ngôi tháp cổ này trước đây do một cao tăng xây nên, dùng để trấn yêu, giờ tháp sụp, yêu quái sẽ tràn ra ngoài làm điều ác. Tiếng gào thét thảm thiết quái lạ kia chính là tiếng yêu quái giãy giụa thoát khỏi kết giới.

Trần Bì A Tứ nghe xong cảm thấy cực kì hào hứng. Ông ta mơ hồ có cảm giác vị trí của ngọn tháp và tiếng kêu mà người Mèo nghe thấy lúc nửa đêm kia có vẻ không hợp lý. Hễ là kiểu người như ông ta đều có trực giác rất lạ, có thể suy ra được thông tin từ lời kể của người khác, cộng thêm một chút bản năng nữa. Về điểm này, ở thế hệ chúng tôi khó mà tìm được một người như thế.

Trần Bì A Tứ suy nghĩ một lúc, rồi quyết định đi xem xét thêm.

Quảng Tây núi non trùng điệp, có thể nói là đứng đầu cả nước. Trong đó, núi Con Mèo có địa thế quan trọng: dãy núi vắt ngang qua ba huyện Hưng An, Tư Nguyên, Long Thắng; là đầu nguồn của ba nhánh sông Ly Giang, Tư Giang, Tầm Giang, và kế tiếp đó là hai hệ sông lớn Trường Giang, Châu Giang. Nơi này có rừng nhiệt đới nguyên sơ rất rộng lớn, trong đó có ngọn núi lớn nhất chính là cao điểm Lão Sơn, là nơi năm xưa Hồng quân Trung Quốc từng trường chinh đánh địch (Việt :'<). Trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều máy bay ném bom của đội Phi Hổ đến viện trợ đã mất tích một cách bí ẩn ở đây, vì vậy nơi này còn có nhiều lời đồn thổi ma quái.

Trần Bì A Tứ đi qua nhiều con đường vòng vèo trắc trở mới đến được một ngôi làng trong núi Phật Nằm. Đứng trên một mô đất cao, nhìn xuống vùng đất trũng ở giữa với núi non bao bọc xung quanh, mẹ kiếp, ngọn tháp kia còn lớn hơn cả những gì ông ta đã tưởng tượng. Tháp sụp đè lên làm đổ gãy nhiều cây cối, cho nên giữa cả một vùng rừng rậm xanh mướt tự dưng xuất hiện một khoảnh trống trơn. Đứng trên núi Phật Nằm không thể nhìn thấy vùng đất trống đó có gì, thế nhưng Trần Bì A Tứ vừa nhìn đã gần như phát hiện ngay ở vùng tháp bị sụp đó cây cối đều bị lún xuống đất, trông rất lộn xộn. Xem ra bên dưới ngọn tháp quả nhiên còn có thứ gì đó, hơn nữa, nó còn lớn hơn cả ngọn tháp.

Tôi nghe đến đây đã biết đó chính là "Kính Nhi Cung". Kính Nhi Cung là tiếng địa phương của người Trường Sa trước giải phóng gọi những kiến trúc nằm dưới lòng đất với quy mô và cấu trúc giống hệt như trên mặt đất, trông giống một cái bóng phản chiếu của tòa nhà xuống mặt hồ vậy, trên dưới hai đầu đều đối xứng nhau chằn chặn.

Kính Nhi Cung, Bắc phái còn gọi là Thoi Âm Dương, ý chỉ tổng thể kiến trúc giống như một con thoi cắm trên mặt đất, một đầu là cõi âm, một đầu là dương gian. Có điều, ngôi cổ mộ hoặc công trình cổ này cực kỳ hiếm, bởi vì đa phần các di tích trên mặt đất đều đã bị phá hủy cả. Do vậy, cách nói này từ mười năm trước Giải Phóng đã không còn được ai sử dụng.

Trần Bì A Tứ chỉ cần nhìn cây cối thay đổi dần theo thứ tự là biết ngay thứ được chôn phía dưới chính là Kính Nhi Cung. Khả năng phán đoán bậc này, nếu không phải là một người có bề dày kinh nghiệm thì không thể nào làm được. Tôi không khỏi thầm than một tiếng, rồi định thần lại, tiếp tục nghe lão Hải kể chuyện.

Lòng tham nổi lên, Trần Bì A Tứ đã hạ quyết tâm. Địa cung bên dưới Phật tháp chỉ có thể có ba loại: xá lợi, kim thân của cao tăng nào đó, hoặc là kinh Phật với số lượng khổng lồ. Cái gì cũng đều vô giá cả.

Tuy nhiên, ông ta lại không phải người địa phương, hoạt động ở vùng này không thuận tiện. Thứ nhất, ông ta thân phận đặc biệt, xuất thân không tốt, thứ hai, thời đó hai tộc người Mèo và người Hán vẫn còn đang tranh chấp không ngừng, mấy ngôi làng ở đây đều là của người Mèo, nếu đi bậy vào có thể sẽ khiến người khác nghi ngờ.

Cân nhắc hết lần này đến lần khác, cuối cùng ông ta nghĩ ra được một kế sách. Ông ta bỏ nhiều tiền thuê một người Mèo địa phương dẫn đường, tự xưng mình là cán bộ trí thức lão thành từ bên ngoài về đây chi viện cho vùng biên giới[2], cách đây không lâu có một học trò của mình bị ngã xuống vách núi này. Người Mèo tính tình chất phác, không rành sự đời, nào có biết đây chỉ là quỷ kế. Anh ta vừa nghe có người bị ngã xuống núi, đã lập tức thông báo cho cả làng. Những thanh niên trai tráng người Mèo hò nhau buộc dây thừng vào một cái gùi, thả Trần Bì A Tứ cùng vài người thanh niên đi theo hỗ trợ lần lượt xuống vách núi.

Theo trí nhớ của Trần Bì A Tứ, lúc đi xuống hơn trăm mét vực này giống như là đang bước chân xuống âm tào địa phủ. Vách núi vô cùng hiểm trở, thể trọng của người khiến mấy sợi thừng căng sít, đặt mông ngồi trong gùi, chỉ cần một ngọn gió thổi qua là cả người lại bồng bềnh xoay tròn như con quay, cực kỳ chông chênh. Cho đến khi ông ta đi qua tầng tầng tán cây dày đặc, xuống tận đáy rừng sâu, thì cũng chỉ còn lại nửa cái mạng.

Dưới tán rừng rậm u ám tối tăm hầu như không thấy ánh mặt trời, trong không khí lại lởn vởn mùi khí metan. Ở đây cây cối có rất nhiều loại, nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là rêu xanh. Bùn đất rất xốp, gần như không thể đứng thẳng được.

Sau khi xuống đến nơi, Trần Bì A Tứ giả bộ mình bị kiệt sức (thực ra là sợ quá nên giấu thôi), ra một chỗ mà ngồi thở dốc. Thủ lĩnh người Mèo trông ông ta không còn trẻ nữa, có thể nói là sắp thành lão già đến nơi rồi, nên cứ để ông ta ngồi đó chờ, còn mình thì đốt đuốc cùng những người khác lùng sục, tìm kiếm theo phương hướng mà ông ta đã chỉ.

Khi đám người vừa đi khỏi, Trần Bì A Tứ lập tức móc ra một cái la bàn, dựa theo vị trí đã ghi nhớ trước đó, chui vào sâu trong khu rừng thẳm. Ông ta ước lượng, khu rừng này tương đối rộng, người Mèo muốn đi hết cũng mất cả buổi tối, với bản lĩnh cả ông ta, hẳn chừng đó thời gian cũng đủ để tìm được lối vào Kính Nhi Cung rồi quay về chỗ cũ. Chỉ có một điều đáng tiếc là lúc này ông ta lại không có đầy đủ trang bị cần thiết, có thể vào đến nơi hay không còn phải xem phúc phận ông ta thế nào đã.

Lơ ngơ đi trong rừng suốt bốn tiếng đồng hồ, dựa vào la bàn cộng với tính quyết đoán có được từ bao nhiêu năm lăn lộn vào nam ra bắc, Trần Bì A Tứ cuối cùng cũng đến được vùng núi Phật Nằm trong kế hoạch, hay cũng chính là một tòa tháp bốn cạnh – di tích của ngôi chùa xưa.

Càng bước sâu vào trong, Trần Bì A Tứ càng thấy nhiều những mái hiên trơ trọi hay các bức tường đổ nát, hiển nhiên kiến trúc cổ ở đây đã chẳng còn sót lại chút gì, chỉ còn lại một ít nền với tường vỡ, hòa lẫn cùng với thảm thực vật dày đặc ở nơi đây, không thể nhìn rõ kiến trúc ban đầu là gì. Tuy nhiên xem quy mô thì ngôi chùa này phải có diện tích vô cùng rộng, ngọn tháp kia bị đổ ắt phải chiếm một khoảng đất rất lớn, nhưng đứng từ nơi đây vẫn khó lòng thấy rõ được vị trí cụ thể của nó ở đâu.

Trần Bì A Tứ đã không còn trẻ, đi loanh quanh hồi lâu cũng bắt đầu nhụt chí. Đang định ngồi xuống nghỉ ngơi, bỗng trước mắt lóe lên một cái, ông ta thấy trong bụi cỏ bên cạnh một mặt tường vẫn còn nguyên vẹn đặt một cái bao. Cái bao ấy bỗng dưng khe khẽ động đậy, bên trong bao hình như còn bọc thứ gì đó. Trần Bì A Tứ giật mình hoảng sợ, nhảy bật ra ngoài, đồng thời bắn một viên đạn sắt về phía cái bao. Đến khi nhìn lại, chỉ thấy trong cái bao nơi vách tường đầy dây leo có một thi thể người Mèo đã khô quắt. Thế nhưng, phần bụng thi thể không biết vì sao lại hơi hơi động đậy, như thể bên trong có thứ gì đó đang quẫy đạp.

Chú thích.

[1] Tứ cựu: hay còn gọi là "Diệt bốn cái cũ", khẩu hiệu đấu tranh trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Bốn điều cần diệt là "tư duy cũ", "văn hóa cũ", "thói quen cũ" và "phong tục cũ".

[2] Sinh viên/ cán bộ Đảng được cử về miền biên cương giúp xây dựng, kiến thiết cuộc sống, dạy học, vv trong thời kỳ sau Giải Phóng. Giống như VN mình sau Giải Phóng cũng có thời kỳ vận động các phần tử trí thức lên Tây Bắc xây dựng cuộc sống mới ấy mà =]]]]]]]


Chương 3. Kính Nhi Cung.

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đối với Trần Bì A Tứ, gặp người chết là chuyện hết sức bình thường. Không phải xác ướp bánh tông mò ra từ cổ mộ thì cũng là kẻ xấu số do chính ông ta giết hại, đếm sơ sơ cũng không hết. Ông ta quay ra nhìn thấy cái xác, tinh thần liền thả lỏng, bụng nhủ thầm chả biết thằng quỷ xui xẻo nào lại lăn ra chết ở chỗ này, đã thành con mực khô rồi mà còn đi hù dọa người ta.

Tuy nghĩ vậy nhưng Trần Bì A Tứ tay vẫn kẹp một viên đạn sắt. Tuyệt chiêu tay không bắn đạn sắt ông ta đã khổ luyện từ bé, đến giờ có thể nói là bách phát bách trúng, hơn nữa, viên đạn ông ta búng ra bay đi với tốc độ cực nhanh, người thường có lẽ còn chưa kịp nhìn thấy động tác của ông ta thì đã bị bắn cho mù mắt luôn rồi.

Nhìn trang phục của thi thể người Mèo này, có thể chắc chắn anh ta đã chết không mười năm thì cũng phải đôi ba năm rồi. Về cơ bản, quần áo đều đã mục nát hết, chẳng qua phần lớn thi thể bị mấy loại cây họ dương xỉ, ba địa[1] và rong rêu mục bao phủ nên phục sức đặc trưng của người Mèo vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng trải qua bao nhiêu năm dầm mưa dãi nắng như thế, không hiểu sao thi thể này vẫn chưa bị phân hủy hết, mà trông chỉ như bị hao đi chút nước thôi?

Phần bụng thi thể vẫn còn hơi cử động, Trần Bì A Tứ càng nhìn càng thấy quái lạ. Ông ta là người có cách hành sự đặc biệt. Ví như nếu là tôi lúc ấy thì chắc chắn đã quay đầu bỏ chạy từ lâu rồi, nhưng Trần Bì A Tứ từ nhỏ đã tôn thờ câu "tiên hạ thủ vi cường", ông ta trong đầu vừa nghĩ, tay đã "Bụp bụp bụp" búng ra ba viên đạn, cả ba viên đều nhắm vào trúng vùng bụng của thi thể, trong lòng nghĩ, mặc kệ mày là cái quái gì, cứ đánh chết đã rồi tính.

Lực bắn của viên đạn sắt cực mạnh, hầu như khiến thi thể bị đánh nát làm hai nửa. Nửa người dưới vừa tách ra, Trần Bì A Tứ tức thì nhìn thấy bên trong trào ra một loại chất nhầy màu vàng không biết tên, bọc bên ngoài một lượng trứng rất lớn. Không ít trứng đã được ấp nở, biến thành một đống sâu màu trắng giãy dụa trong chất nhầy. Nhìn thoáng qua, trông nó có vẻ giống một thứ mà ông ta vô cùng quen thuộc: tổ ong. Ngay sau đó, từ vết thủng trên thi thể người túa ra một đàn ong địa hoàng[2].

Trần Bì A Tứ chửi một tiếng, trong bụng thầm than thật xui xẻo, hóa ra là ong địa hoàng làm tổ trong thi thể này. Nọc của ong địa hoàng có độc tính rất mạnh, lại cực kỳ hung dữ, đúng là số ông ta quá đen.

Mắt trông thấy ong địa hoàng bắt đầu túa ra thành cả một màn sương đen đặc, Trần Bì A Tứ bỗng cái khó ló cái khôn, lôi từ trong ba lô đồ tùy thân ra một cái xẻng gấp của quân giải phóng, xúc một xẻng đầy đất bùn ẩm, hất mạnh lên vết thủng của thi thể hòng lấp hết đám ong địa hoàng đang ào ào túa ra, sau đó xoay người bỏ chạy.

Đám ong địa hoàng đã ở bên ngoài liền ùa lên, ông ta vừa dùng quần áo đập liên tục, lại vừa chạy loạn không cần nhìn phương hướng. May mà ban nãy nhanh tay xúc một xẻng đất bùn nên mới chỉ mất có mấy cái túi. Chờ đến khi ông ta dừng lại để thở gấp, phủi phủi mấy con ong địa hoàng còn bám lại trên người, nhìn quanh quất thì không biết mình đã chạy đến nơi nào rồi.

Trần Bì A Tứ rút mấy con ong đã kịp đâm vào người mình, cơn đau buốt ập đến khiến ông ta phải nghiến răng. Trong bụng vẫn thấy quái lạ, tại sao trong xác chết lại có ong địa hoàng làm tổ nhỉ? Loài ong độc này thường sống dưới lòng đất, giống như loài kiến vậy. Vào sâu trong rừng mưa Quảng Tây, đôi khi còn có thể nhìn thấy hàng đống tổ ong nhấp nhô như những ngọn đồi con con. Người đi đường không biết, lại tưởng tổ kiến, đào lên tìm kiến, thế là trong khi anh ta còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị đàn ong xâu xé đến mức biến thành một quả bóng gai.

Ở mảnh đất Vân Nam, Quảng Tây này, đối với kiến thức về côn trùng sâu bọ thì người thường cũng không hiểu biết nhiều, Trần Bì A Tứ chỉ có thể tự trách số mình quá xui. Ông ta vừa tự xử lý vết thương, vừa quan sát xung quanh. Sau khi leo lên một gò núi, ông ta bỗng ngây ngẩn cả người.

Chỉ thấy một ngọn tháp bằng đá rất lớn sụp xuống ngay trước mặt, dưới chân gò núi mà ông ta đang đứng. Có vẻ như thân tháp vốn có sáu cạnh đều nhau (không thể thấy rõ được), đồ sộ hùng vĩ, xà rộng, mái xen mái[3]. Dùng dao gạt hết lớp rêu xanh và cây leo quấn trên bề mặt ra, ông ta mới thấy trên thân tháp có khắc những bức phù điêu bằng đá vô cùng tinh tế. Tuy nhiên, tòa tháp này rõ ràng đã từng bị thiêu hủy, cho nên tất cả các bộ phận còn lại của tòa tháp đều có những vết cháy sém màu đen, có thể vụ cháy chỉ là do tai nạn.

Toàn bộ thân tháp, nóc tháp và chóp tháp[4] đều rạn nứt cả, sau cơn sụt lún đã đổ vỡ thành nhiều khối đá lớn. Thân tháp quá nặng, một phần của tháp lún hẳn xuống lớp bùn đất của khu rừng mưa. Từ dưới chân tháp, cây cối chen nhau mọc lên nhiều không kể xiết.

Trần Bì A Tứ mình đầy kinh nghiệm, biết loại tháp này gồm có địa cung, chân tháp, thân tháp, đỉnh tháp và chóp tháp cấu tạo nên. Chóp tháp nằm ở nơi cao nhất của ngọn tháp, trên chóp có tu di tọa, ngưỡng liên, phúc bát, tương luân và bảo châu[5]. Phía trên tương luân còn có bảo lọng, viên quang, ngưỡng nguyệt[6] và bảo châu. Nói chung, trên đỉnh tháp này hẳn là có một thứ gì đó như châu ngọc, cực kì có giá trị.

Ông ta đi dọc theo thân tháp, đến bên cạnh chóp tháp. Có lẽ khi bị đổ, chóp tháp đã đụng trúng phải một cây Vân sam cao lớn, kết quả là chưa rơi xuống đất đã gãy, đầu chóp cắm ngập vào đất, tu di tọa thì vỡ vụn. Trần Bì A Tứ xem xét mức độ hư hại, xác định bảo châu chắc chắn giờ đã biến thành "bảo bánh" rồi, chả còn giá trị gì nữa.

Ông ta lại đi xuống phía chân tháp, ở đây có một phần của đoạn tháp vẫn còn nguyên vẹn. Bò vào thì chỉ thấy bên trong toàn đá vụn, phía dưới chắc chắn có địa cung. Đáng tiếc, đường xuống địa cung đã bị phong kín ngay từ khi bảo tháp được dựng nên, hơn nữa, tháp sụp xuống khiến cả tấn gạch đá vùi lấp mất đường xuống, chỉ với một cái xẻng, muốn đào đến địa cung có khi phải mất nửa năm là ít.

Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắc trời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, mà giờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờ bị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm một cành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ý của người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.

Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cối mọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phía xung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp (đất bụi từ kiến trúc, đất bụi theo thời gian) vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưng của Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơi nước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đập bẹp một cái bánh bao không nhân.

Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đào xuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.

Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung này rồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũng không phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả những tên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối không thể kìm được lòng hiếu kỳ.

Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩ nhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữa đám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vào địa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.

Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng Lạc Dương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy cho cũng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứ của nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào một lối vào ngay sát chân tháp.

Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại không dùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góc khúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, không lâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soi vào bên trong.

Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặt dưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trên cao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.

Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.

Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp để trấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắng qua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông ta liền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móc hai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình như một cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đều dồn cả vào hai chân.

Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế một chút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợt phát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.

Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn. Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiên là xem không hiểu.

Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn ma hay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địa cung này để phong ấn thứ gì đây?

Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có một vòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từng tầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều có những bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắc sặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuống dưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng, mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế, phỏng chừng phải hơn trăm pho.

Trần Bì A Tứ nhìn những bức tượng La Hán này, trong lòng cực kì căng thẳng, nhưng lại không rõ mình đang sợ hãi cái gì, trong đầu không khỏi nảy lên ý định lùi bước.

Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xem ngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tay ông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vị trí.

Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có một bức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn không giống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung mà lại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theo dõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếu tới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bức tượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp ma quỷ rồi.

Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dám động đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.

Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giết quá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình có thể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.

(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hành nghề bất chính[7] thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc phái bái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giải thích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.

Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, "Mãn thành tận đái hoàng kim giáp", chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậc trưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻ giết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn (8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ý gì?  Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, không biết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian Trung Quốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (không phải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngục mà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyển thế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngài trở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động =]])

Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy có nét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoán được vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ông ta sợ mất mật chơi?

.

.

Chú thích.

[1] ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens.

[2] ong địa hoàng: một loại ong thuộc tỉnh Quảng Đông, loại này chủ yếu chia ra làm hai giống. Một giống gọi là "ong quỷ đầu" vì phần bụng eo có màu đen, hung dữ, độc tính rất mạnh. Loại còn lại là "ong hoàng yêu" vì phần bụng eo màu vàng, không chỉ hung dữ và độc tính rất mạnh mà còn có thể làm tổ ở trên mặt đất nữa. Loại trong truyện nhắc đến chính là loại ong hoàng yêu này.

[3] nguyên là "mật diêm": một loại tháp Phật với các mái hiên xếp lớp, đa số thường xây với kết cấu bằng đá.

[4] chóp tháp (nguyên là "tháp sát"), là thứ để trang trí, nằm ở trên chóp cao nhất của Phật tháp.

[5] Trong hình, bắt đầu tính từ chóp tháp trở lên trên: tu di tọa ~> ngưỡng liên ~> phúc bát ~> tương luân ~> ngưỡng nguyệt ~> bảo châu.

[6] Bảo lọng là cái lọng quý

Viên quang là viên luân kim quang trên đầu Phật. Ở đây nó mang nghĩa là đồ trang trí hình tròn vòng trên chóp tháp trông như viên quang.

Ngưỡng nguyệt là bộ phận hình trăng lưỡi liềm hướng lên trời của chóp tháp.

[7] nguyên văn là "ngoại bát hành", thời cổ đại có ba trăm sáu mươi nghề, thì "ngoài bát hành" không thuộc nghề nào trong số này, không thuộc loại nghề nghiệp đứng đắn, không thuộc loại công nông binh học thương. "Ngoại bát hành" gồm có: kim điểm, khất cái, cướp đường, ăn trộm, đổ đấu, sơn tặc, lĩnh hỏa, thải thủy, xưng là "ngũ hành tam gia". Kim điểm là bọn tướng số, đổ đấu là bọn trộm mộ, sơn tặc mánh khóe bịp người, lĩnh hỏa thông thạo thuật dùng cổ/ trùng độc, thải thủy làm quan kỹ.


Chương 4 – Hơn một người

Editor: Phoebe Irene

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trần Bì A Tứ càng nghĩ càng thấy sợ, nhưng ông ta đã ở tuổi năm mươi gần sáu, kinh nghiệm sành sỏi chừng ấy năm đương nhiên tôi không thể so sánh. Sau sợ hãi chắc chắn sẽ là yếu đuối, ông ta tự nhủ đồ con lừa, nhìn cái gì mà nhìn, thế rồi tay nhanh như chớp lấy ra mấy viên đạn sắt, hai chân dùng lực cố định cơ thể, bắn đoàng đoàng hai phát đánh thẳng vào bức tượng La Hán mặt trắng ngước lên nhìn trời kia.

Tôi đã nói rồi đó, phương châm sống của Trần Bì A Tứ chính là tiên hạ thủ vi cường, những lời này ông nội tôi đã nhắc đi nhắc lại không dưới một lần. Có thể nói trên giang hồ vốn là như thế, đạo lý này tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng hữu dụng. Hai viên đạn sắt bắn ra không hề nương tay, bỗng nghe hai tiếng trầm đục, thì ra đã bắn trúng mắt pho tượng La Hán mặt trắng kia, vừa bắn trúng hai hốc mắt đã vỡ toác, còn viên đạn thì bật ra ngoài, rơi xuống đáy Kính Nhi Cung.

Nếu đó là người thật đảm bảo đã bị đánh mù, qua đó đủ thấy chiêu thức này tàn độc cỡ nào. Pho tượng La Hán kia tuy làm bằng đất nung cũng không chịu được va đập mạnh như thế, sau va chạm hai con mắt của La Hán đã thành hai cái hố sâu, thoạt nhìn thì thấy trống rỗng quái đản, nhưng cảm giác so với vừa rồi đã đỡ hơn rất nhiều.

Trần Bì A Tứ thở phào một hơi, trong lòng cười khẩy, thầm nghĩ mấy cha hoà thượng thối này, cái gì mà tứ đại giai không chứ, chẳng phải cũng chỉ suốt ngày ru rú trong đây bày trò quỷ để hù người sao. Nghĩ rồi lấy ra một cái vuốt thằn lằn, một đầu móc lên khung gỗ của trần cung, một đầu nối liền với sợi dây thừng đơn bằng da hải tượng buộc trên mắt cá chân rồi thả mình xuống, sợi dây đàn hồi cứ thế giãn dần ra. Dùng dây da hải tượng là kinh niệm mà Trần Bì A Tứ đúc kết ra được sau nhiều năm trộm mộ, khả năng chịu lực của nó chỉ đứng sau dây thép, hơn nữa còn có thể kéo giãn. Vả lại Trần Bì A Tứ có vóc dáng thấp bé gầy gò, cuốn dây này quanh eo cũng chỉ mất hơn mười vòng, mặc quần áo lên rồi chẳng ai nhìn ra được nữa, có khả năng đối phó với độ sâu trên dưới mười mét.

Có điều Kính Nhi Cung này đâu chỉ sâu hơn mười mét, Trần Bì A Tứ thả hết cuộn dây thì vẫn còn cách đáy cung một khoảng rất xa.

Nhưng theo những gì ông ta thấy khi hạ xuống, đã có thể nhìn được hình dạng những thứ bên dưới. Nền đáy cung hình như làm bằng cẩm thạch, trải qua nhiều năm địa chấn cộng với bong tróc tự nhiên nên bên trên rải rác vô số mảnh vụn, chính giữa đáy cung là một toà bảo tháp nhỏ xíu màu trắng không biết làm từ ngọc thạch hay là ngà voi, phía trên che một tấm "Bảo trướng" bằng sa mỏng gần như trong suốt cho nên không thể nhìn rõ bảo tháp mà chỉ thấy một màu trăng trắng mơ hồ.

Trần Bì A Tứ không hiểu biết nhiều lắm về những thứ như Phật tháp hay phù đồ, cái này liên quan tới thế hệ dân không biết chữ thời trước giải phóng. Thổ phu tử ở Trường Sa có một câu châm ngôn: Vạn hộ hầu (1) không sánh bằng phù đồ, chính là ám chỉ của báu trong mấy cái địa cung dưới tháp Phật thường thường còn xa xỉ hơn lăng mộ của vạn hộ hầu. Trần Bì A Tứ tuy đã nghe qua câu này nhưng tiếp thu không đủ sâu sắc, nếu đổi lại là tôi thì lúc đó đã đoán ra thứ trước mặt mình là gì.

Bảo tháp nhỏ xíu dưới đó chắc chắn là bát trùng bảo hàm chứa xá lợi Phật, chính là một bộ tám hộp chiếc này chứa chiếc kia, đây là đồ chuyên dụng của nhà Phật. Hơn nữa xá lợi trong đó chính là ba nghìn thế giới cùng lục đạo luân hồi, tạm thời chưa cần biết nằm trong đó có thật sự là Phật cốt không hay chỉ là cốt mô phỏng từ ngọc thạch, chỉ cần biết nó là bát trùng bảo hàm thì trời ơi... Giá trị của món này nhất định không thể tính toán.

Tôi nghe đến đó thì cảm thấy có điểm đáng ngờ, nếu quả thực Trần Bì A Tứ đã trộm Bát trùng bảo hàm ra từ trong địa cung, vậy thì tại sao những thứ này lại xuất hiện trên mặt báo? Chẳng lẽ lúc ấy ông ta chỉ cách bảo vật trong gang tấc, lại vì lý do nào khác mà buông tha? Dựa vào tính cách của hạng người này thì chuyện như thế không thể xảy ra được.

Lão Hải không thấy tôi đang thất thần, cứ thế thao thao bất tuyệt, có điều cách ông ta kể rất dài dòng. Tôi cũng không chen vào nổi, đành phải tiếp tục nghe ông ta chém gió.

Sau khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy bảo tháp, tuy còn chưa rõ dưới đó là thứ gì, nhưng chắc chắn cũng không quá tệ. Bây giờ chỉ cần xuống được dưới đó hiển nhiên sẽ bội thu, nhưng vấn đề là làm sao mà xuống.

Chỉ tiếc ông ta không mang theo đầy đủ dây thừng, sớm biết thế này chi bằng vừa rồi cứ lui về đã, chuẩn bị chu đáo hẵng quan lại, cũng không đến nỗi rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan thế này.

Ông ta lại chiếu đèn pin khắp xung quanh, trong lòng kinh hãi, không khỏi thầm kêu thôi chết mịa nó rồi.

Hoá ra đáy cung không phải đất vàng mà là một ụ đất rất lớn, vừa nhìn qua đã biết đó vốn là một cái tổ ong địa hoàng.

Nhìn theo hướng ụ đất, có thể thấy trên vách địa cung có một cửa đá cao khoảng nửa thân người, trổ ra ở vị khí rất khuất, ụ đất chính là từ nơi này tiến vào "sinh trưởng".

Xem ra bốn phía của Kính Nhi Cung này còn phải phụ thuộc vào kiến trúc trên mặt đất, hơn nữa rất có thể cũng không hề bị phong kín, kết quả là khiến nơi này trở thành một sơn trang nghỉ dưỡng đông ấm hè mát cho lũ côn trùng. Từ nơi này nhìn xuống, tổ ong cũng không lớn lắm, chỉ e phần nấp sau cánh cửa kia mới thật sự kinh khủng. Cũng khó trách tổ ong này xây được lớn như thế, nơi đây là một công trình nhân tạo ngầm dưới lòng đất, mưa gió không lọt, quả là một "địa bàn tốt", xem ra mấy lão ong trong tổ ong này cũng biết xem phong thuỷ.

May mà vừa rồi khi cưa thanh xà gỗ lấy đường xuống, thanh xà rơi vào khoảng giữa mấy bức tượng La Hán chứ không đụng trúng tổ côn trùng, nếu không lúc đó trông ông ta có khác gì xâu lạp xường treo lủng lẳng, có muốn trốn cũng không kịp, bị lũ ong này bu kín, chỉ e sẽ bị người đời sau đem ra làm trò cười thiên cổ.

Nhưng cứ thế này thì cũng phiền toái, chỉ cần chân vừa chạm đất, dù anh rón rén đến thế nào thì di chuyển một toà tiểu tháp trong không gian nhỏ như thế cũng không thể không kinh động đến bọn ong đất kia.

Trần Bì A Tứ cân nhắc sơ qua cũng hiểu rõ không thể đi xuống, nếu muốn lấy đồ ra thì chỉ còn một cách.

Đến đây không thể không nhắc tới lai lịch của Trần Bì A Tứ, người này thuở nhỏ lớn lên trong một làng chài ở vùng duyên hải Chiết Giang, khi người Nhật đánh đến nơi mới chạy nạn tới Trường Sa, thế nên ông ta dùng phương ngữ Trường Sa không trôi chảy chút nào. Nhưng Trần Bì A Tứ lại cực kì thông minh, từ thời xưa thổ phu tử có tục không truyền nghề cho người tỉnh khác, ông ta là một trường hợp rất hiếm hoi.

Thời gian Trần Bì A Tứ ở Hải Diêm đã luyện được một tuyệt chiêu, chính là bắt cua trên bãi bùn. Dĩ nhiên không phải dùng tay bắt, vật Trần Bì A Tứ dùng để bắt cua có tên là "Cửu trảo câu".

Thứ này cũng giống như phi hổ trảo trong phim võ hiệp hay tam câu trảo thường được bộ đội đặc chủng dùng để leo vách núi. Nhưng loại móng vuốt này lại có tới chín móc, sắp xếp rất khít thành một vòng tròn khép kín, khi bắt cua thường sẽ lấy dây thừng cột vào phần chuôi móc, khi thấy cua ló đầu lên khỏi bãi bùn thì vung ra, một lần móc được một con cua. Sau đó kéo thêm một cái, con cua sẽ bay ngược về chui tọt vào giỏ.

Theo ghi chép trong bản bút ký của ông nội tôi, công phu này có thể chính xác tới mức người sử dụng nó khi vung ra có thể câu về một quả trứng gà cách mình 20m mà không hề làm nó rơi vỡ, quả thực rất thần kỳ. Nếu xa hơn có thể dùng gậy để vung ra, cũng sẽ vô cùng chính xác.

Trần Bì A Tứ lúc này không nghĩ ra cách nào khả thi, đành phải cắn răng quyết định thể hiện bản lĩnh nhà nghề. Đầu tiên ông ta đu vào chỗ mấy bức tượng La Hán, men theo đó mà từ từ leo xuống dưới. Đến khoảng cách hợp lý, Tràn Bì A Tứ lấy cửu trảo câu ra, vung đầu móc xuống dưới, vẽ lên một vòng cung nhỏ. Móc câu đã móc vào bảo trướng, cũng may vật này rất nhẹ, không giống với đá xanh thường thấy. Trần Bì A Tứ vung tay một cái hất bảo trướng lên, đáp xuống đầu một bức tượng La Hán. Lại thay đổi lực đạo trên tay một chút, móc câu lập tức thoát ra quay về chính chủ.

Kế tiếp là phải gỡ bỏ tháp ngọc thạch hay ngà voi gì đó đi. Có điều không biết nó là vật liệu gì nhưng dùng cửu trảo câu không tài nào kéo lên được, Trần Bì A Tứ vung cửu trảo câu móc lấy tháp báu, giật vài cái cũng không hề thấy nó xê dịch chút nào.

Kiểu này không nửa tấn thì cũng tới năm trăm cân, Trần Bì A Tứ chửi thầm một tiếng.

Ông ta đưa đèn pin quét qua thân tháp, nhìn đến chân tháp thì thấy có bốn cây cột nhỏ. Tháp này tất nhiên là một bản mô phỏng của cái tháp trên đỉnh đã sập, cấu trúc cũng không khác biệt cho lắm, bốn cây cột chống đỡ toàn bộ trọng lượng thân tháp. Bảo hàm nằm chính giữa mấy cây cột, chẳng qua là do góc độ chưa chính xác, nếu câu cẩn thận hơn thì vẫn có thể kéo lên được.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã rất sốt ruột, ông ta đoán chừng từ lúc xuống đây cũng đã được bốn giờ. Vừa rồi loáng thoáng còn nghe thấy tiếng cười, không chừng mấy người Mèo kia đã đến gần chỗ này, không còn nhiều thời gian nghĩ cách nữa rồi.

Trần Bì A Tứ định thần lại, máu dồn lên não, ác tâm cũng bắt đầu trỗi dậy, lại vung tay "đoàng, đoàng" bắn ra hai viên đạn sắt. Viên đạn bắn trúng cây cột nhỏ dưới đáy tháp, cây cột tức khắc vỡ ra. Sau đó ông ta thả người nhảy một cái, hạ xuống một bên mép tháp, vừa yên vị lập tức mượn lực rơi của mình khiến cho tháp nghiêng sang một hướng. Hai cây cột hai bên đột nhiên phải chịu thêm lực, tức khắc gãy gập. Tháp cứ thế sụp xuống, thân tháp và nền tháp nứt bung ra.

Trần Bì A Tứ bám trên đỉnh tháp nên khống chế được lực độ, tháp nặng nên tốc độ nghiêng cũng chậm. Cho đến khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy một góc của bảo hàm đã lộ ra dưới đáy tháp, bèn vung cửu trảo câu, thoáng cái đã kéo nó lên dễ dàng. Sau đó thu lại móc câu rồi vung ra lần nữa, móc vào một bức tượng La Hán, định giữ thăng bằng cho mình.

Những động tác này chỉ diễn ra trong ba giây, nhưng ông ta không ngờ bức tượng La Hán kia không chịu nổi sức nặng của mình và thân tháp, mới kéo một cái, tượng La Hán bắt đầu lung lay, liền đó rơi từ trên tường xuống.

Phía dưới chân hầu như chỗ nào cũng có tổ ong, nếu cứ thế này mà ngã xuống chẳng khác nào ngã thẳng vào giữa đàn ong, chỉ e khó lòng thoát chết.

Trong chớp mắt Trần Bì A Tứ dùng hết khí lực kéo tượng La Hán về phía mình, một tay ném bát trùng bảo hàm vào không trung, sau đó đổi tay nhanh như chớp, dễ dàng đỡ được tượng La Hán. Nhưng rốt cuộc ông ta lẫn không thoát, đỉnh bảo tháp đã đập mạnh vào vách tường địa cung, xô thêm nhiều tượng La Hán rơi xuống.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã không còn kỹ xảo gì để thi triển nữa, ông ta chỉ còn biết trơ mắt nhìn một đống tượng La Hán rơi trúng tổ ong địa hoàng, tức khắc bụi đất nổi lên bốn phía, tổ ong hầu hết đều bị đập cho vỡ nát tan tành.

Trong lúc hỗn loạn ông ta đành quẳng bức tượng La Hán trong tay đi, đỡ lấy bảo hàm. Theo phản xạ ông ta chiếu đèn pin vào cái tổ ong kia theo phản xạ, trong lòng thầm nhủ thôi số mình đen, coi như đi tong cái mạng già này rồi. Thân nam nhi không chết trên chiến trường lại chết dưới địa cung, thật là ứng với lời dạy của tổ tông mà.

Đèn pin vừa chiếu qua, cái khe kia lại không có một bầy ong vàng túa ra ào ào như ông ta từng tưởng tượng, ngược lại tổ ong bên trong lại khô ráo không đọng chút hơi nước, có vẻ đây là một tổ ong đã bị bỏ hoang.

Nhưng điều khiến cho ông ta lạnh người là bên trong khe có một khối gì đó tối đen, trông như một cái tổ được xây khi đám ong tiến vào, không biết là xác người chết hay là xác động vật.

Ông ta nhảy xuống đó xem xét thì thấy đó là một pho tượng La Hán kiểu dáng tương tự những bức tượng La Hán ở đây, đã rơi vỡ thành vài mảnh, xem ra nó đã rơi xuống đây từ khi tổ ong chưa hình thành, kết quả là để cái ụ đó tiến vào.

Trần Bì A Tứ ngẩng đầu nhìn lên, vừa rồi khi nhảy xuống tuy không mấy để ý, nhưng ông ta cảm thấy hình như không có chỗ nào khuyết đi một bức tượng La Hán ngồi, vậy bức tượng này rơi xuống từ đâu mới được chứ?

———————————————————————

(1) Thời xưa phong hầu sẽ kèm theo "thực ấp", tức là một số hộ dân giao hẳn cho người này cai quản và thu thuế. Vạn hộ hầu = tước hầu thu thuế của 1 vạn hộ, đây là con số rất lớn, trong lịch sử số người được phong hầu lên đến 1 vạn hộ rất hiếm nên vạn hộ hầu là người cực kì giàu có.

—————————————————————–


Chương 5: Khởi đầu đầy hoang mang

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Lúc này cả địa cung chìm trong bóng tối mịt mùng, nhìn lên theo quầng sáng đèn pin loang lổ chiếu ra chỉ thấy nơi nơi đều là những vị La Hán đang trông xuống, hàng trăm cặp mắt chằm chặp dõi theo Trần Bì A Tứ. Do nguồn sáng di động, tròng mắt La Hán thấp thoáng lộ ra vẻ dữ tợn, làm bầu không khí trong chốc lát đã trở nên hết sức quỷ dị.

Trần Bì A Tứ lại chửi thề vài câu "con lừa trọc"(1), bụng bảo dạ nhất định những gã hòa thượng kia cố ý lừa mình. Nhưng lúc này ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản được nhiều như vậy, bèn tìm thêm vài vòng nữa, nhưng tìm mãi vẫn không phát hiện ra khuyết mất một pho tượng chỗ nào.

Bỗng trong đầu lóe lên một ý nghĩ, Trần Bì A Tứ đã dần dần nắm được vấn đề nằm ở đâu, tay cầm đèn pin cũng dời về vị trí pho tượng La Hán mặt trắng ngước nhìn trời đã bị ông ta đập vỡ hai mắt. Chỉ có pho tượng La Hán này rõ ràng là không giống những pho khác, vấn đề hẳn phải nằm ở đây. Có khả năng kẻ nào đó đã đẩy vị La Hán này xuống từ trên kia, sau đó thế chỗ bằng vị La Hán mặt trắng ngước mặt nhìn trời này, cho nên chỉ có mình pho tượng La Hán này khác biệt với những pho tượng còn lại. Tiên sư cha, sao lại có đứa rỗi hơi tự dưng giở trò này làm cái quái gì không biết? Hơn nữa còn có thể đoán biết chính xác vị trí mình nhảy xuống để xoay đầu pho tượng hướng vào đó, không phải người trong cuộc thì làm sao có thể? Chẳng lẽ chuyến đi này của mình đã chậm chân hơn kẻ khác? Nơi đây đã có kẻ đến trước, lại còn bố trí sẵn những thứ này để chọc phá mình sao?

Trần Bì A Tứ rọi đèn pin lên thân hình phốp pháp của vị La Hán mặt trắng kia, rồi lại áng chừng  Bát trùng bảo hàm nặng trịch trên tay. Nếu quả thực đã có kẻ đến trước thì làm gì có chuyện hắn không cuỗm cả thứ này theo chứ. Chưa khoắng sạch mà đã bỏ đi là điều không thể, nhất định mình đã lo bò trắng răng rồi. Đây chẳng qua là cái bẫy cho mấy con lừa trọc đó cài sẵn để đánh lạc hướng suy nghĩ của người ta thôi.

Trần Bì A Tứ thả lỏng tinh thần. Tuổi không còn trẻ, lại phải trải qua một phen quăng quật như vậy, ông ta đã sắp tới cực hạn rồi. Ông ta ho khan vài tiếng, định bụng rời ánh đèn pin khỏi pho tượng La Hán kia, rọi ra bốn phía để xem làm thế nào dùng ít sức nhất mà trở về được. Chính vào lúc đó, một cảnh tượng khiến người ta khiếp vía đã xảy ra.

Trong tích tắc ánh đèn pin rời khỏi pho tượng La Hán kia, Trần Bì A Tứ đột nhiên nhìn thấy cái mặt trắng bệch nọ bất thình lình vọt ra!

Đèn pin rời đi quá nhanh nên cảnh tượng này chỉ vụt qua rồi biến mất, nhưng Trần Bì A Tứ lại thấy rất rõ ràng. Ông ta không phải loại người không tin vào mắt mình, lập tức cảm thấy đầu óc muốn vỡ tung, xém chút nữa đã ngã ngồi trên mặt đất. Nhanh như chớp giật, Trần Bì A Tứ thét lớn một tiếng tiếp thêm can đảm cho chính mình rồi trở tay một cái, một loạt đạn sắt bắn ra như nã súng liên thanh.

Ông ta dựa vào vị trí mình đã ghi nhớ ban nãy mà liên tục búng ra mười mấy viên đạn. Những viên đạn đó bắn tới bắn lui tứ phía trên đỉnh đầu khiến Trần Bì A Tứ còn tưởng pho tượng La Hán mặt trắng tựa như yêu quái kia đã nhảy xuống đến nơi. Trong lúc bối rối làm loạn trận tuyến, ông ta rút khẩu Vương Bát Hạp Tử (2) cũ mèm thời trai tráng kia ra.

Ông ta hoảng sợ thật sự rồi. Khẩu súng này từ vài năm sau giải phóng đã không được đụng đến lần nào nữa, đúng hơn là ông ta không dám tùy tiện rút ra. Lúc này cầm lấy nó, dẫu biết là vô dụng nhưng chí ít cũng tăng thêm dũng khí, tức là ông ta thật sự là đã hoảng đến không còn tỉnh táo nữa rồi.

Thì anh nói xem, làm cái nghề đào cát có mấy thập niên thôi, cơ hội đụng phải các loại bánh tông đã ít lại càng thêm ít. Trường hợp thế này, cho dù có mặt ông nội tôi ở đó thì cũng khó mà ứng phó nổi. Trần Bì A Tứ tuy cũng là kẻ già đầu trong đám lão làng, thế nhưng kinh nghiệm chủ yếu chỉ gói gọn trong những cuộc đấu đá sinh tử với người sống, chứ hễ đụng phải những chuyện nằm ngoài khả năng tiếp nhận của mình thì vẫn hoảng sợ như thường thôi.

Đang lúc hoảng loạn, ông ta lại liếc thấy cánh cửa đá thấp khuất tầm nhìn kia. Lúc này mà leo lên theo đạo động để quay lạithì là chuyện không tưởng rồi, vẫn nên tìm đường khác mà chuồn thì hơn.

Trần Bì A Tứ khom lưng chui qua cánh cửa thấp tè thì thấy một gian phòng đá. Tổ ong địa hoàng bự như một cái sườn núi mọc ra từ trên tường, quy mô không hề nhỏ, khiến ông ta không thể nhìn rõ trong căn phòng đá này vốn bày biện những gì. Chạy được vài bước thì chân mắc phải tổ ong, lập tức ngã dập mặt xuống đất. Đèn pin văng ra rõ xa mà ông ta cũng chẳng buồn nhặt, chỉ ôm chặt khẩu súng vọt về phía trước.

Qua căn phòng đá là đến một con đường dài, thoạt nhìn phải dài đến mười mấy mét, phía cuối đường là cửa chính của địa cung đang phát ra một vầng ánh lửa thật mỏng manh, hẳn là có cái gì chặn ở lối ra. Ông ta cắn răng bước thấp bước cao, cũng không biết mình đã dẫm đạp lên thứ gì nữa. Địa thế cuối cùng cũng bắt đầu hướng lên, Trần Bì A Tứ lại chạy thêm mười mấy bước nữa, trong lúc đầu váng mắt hoa chỉ mong tới được chỗ ánh lửa kia thì đầu ông ta đột nhiên đụng phải thứ gì đó. Chỉ nghe một loạt những tiếng va chạm đổ vỡ vang lên, ông đã thoát ra ngoài, ngã lăn quay trên đất.

Bên ngoài hừng hực ánh lửa, Trần Bì A Tứ đứng lên liếc nhìn bốn phía, phát hiện mình chui từ một đoạn tường đổ ra đây. Ông ta còn chưa hết kinh ngạc vì phát hiện ra cửa vào bí mật của phù đồ địa cung thì ra lại nằm sau một bức tường thì đã bị mấy người Mèo kề dao vào cổ, đồng thời vật ông ta nắm trong tay cũng bị tước mất.

Trần Bì A Tứ cũng đã sức cùng lực kiệt không còn phản kháng nổi, vừa thấy bất ổn bèn lảo đảo chạy, mới được vài bước đã bị người ta đạp một phát vào khoeo chân, phải quỳ rạp trên mặt đất, ngẩng đầu lên thì thấy mấy tên trai tráng người Mèo bị mình lừa xuống dưới này đang giơ đuốc bao vây lấy mình. Vị thủ lĩnh cầm đầu có phần tức giận, nhìn hắn chằm chặp. Xem ra bọn họ tìm kiếm một vòng mà chẳng phát hiện được gì nên đã biết mình bị lừa rồi.

Vị thủ lĩnh người Mèo đưa mắt nhìn Bát trùng bảo hàm vừa lấy được từ tay hắn, rồi lại liếc sang cái động ngầm tối thui trong đoạn tường đổ, dĩ nhiên trong bụng đã hiểu được căn nguyên chuyện này, trên mặt bèn lộ ra vẻ chán ghét. Y quay sang một tên trong đám người Mèo, làm động tác che hai mắt lại, rồi dùng tiếng Mèo nói vài câu. Trần Bì A Tứ hổn hển thở gấp, đây cũng không phải giả vờ, nhưng để lừa kẻ khác nên ông ta có cường điệu thêm lên, còn không ngừng ho khan. Nhưng vừa nhìn đến động tác của người Mèo kia, trong lòng ông ta chợt lạnh buốt. Ông ta đã sinh sống ở Quảng Tây bao nhiêu năm trời nên thừa biết là họ muốn móc mắt mình ra.

Tên người Mèo vâng lệnh gật đầu, bẻ một loại lá cỏ sắc nhọn mọc bên đường rồi ngồi xổm xuống trước mặt ông ta, dùng tiếng Mèo hỏi ông ta một câu. Trần Bì A Tứ liên tục xua tay, ra vẻ như mình hụt hơi lắm. Người Mèo kia thấy ông ta mệt lử thì nhìn nhau, không biết làm sao cho phải. Mấy người Mèo khác lại tò mò về chỗ ông ta chui ra, bèn đốt đuốc thò đầu nghiêng ngó bên trong.

Trần Bì A Tứ cù cưa được vài phút rồi mà vẫn không thấy bức tượng La Hán mặt trắng trông như yêu quái kia đuổi ra đến nơi, không khỏi nảy sinh thắc mắc. Lúc này ông ta đã hồi phục được một phần thể lực, thấy hai người Mèo tiến đến muốn giữ lấy tay mình cũng đủ biết nếu còn không phản kháng thì coi như xong đời. Ông ta bèn nhếch mép một cái, bắn ra một loạt đạn sắt, một loạt tiếng đoành đoành đoành đoành vang lên, trong nháy mắt đã đánh rơi toàn bộ đuốc ở đó xuống đất.

Đám người Mèo phút chốc kinh hãi không biết phải làm thế nào. Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng, sát ý nổi lên, một cước đá ngã lăn tên người Mèo đang đứng trước mặt, đồng thời xoay một tay rút khẩu Vương Bát Hạp Tử, những muốn giết người. Nhưng đúng lúc đó ông ta chợt nghe gió lạnh thổi vù một tiếng, bàn tay mình đã mát lạnh, sờ thử một cái thì thấy đầu ngón tay đặt lên cò súng đã không còn nữa.

Trần Bì A Tứ nào từng nếm qua thiệt hại như thế bao giờ, trong lòng hốt hoảng. Chẳng chờ ông ta kịp phản ứng, một luồng gió lạnh lại thổi tới, Trần Bì A Tứ chỉ kịp nhìn thấy con ngươi lãnh đạm của vị thủ lĩnh người Mèo kia cùng với hình xăm kỳ lân nhảy múa trên thân y. (hả hả hả :v Bình Tử thối anh làm gì ở đây :v) Đó là cảnh tượng cuối cùng mà ông ta chứng kiến, vì một giây sau đã bị một nhát dao chém mù. Con dao quắm của vị thủ lĩnh người Mèo từ con mắt trái của ông ta bổ ngang vào, vạch đứt đôi xương mũi, cắt ngang qua mắt phải rồi phá ra, hai con mắt ông ta lập tức mù hẳn.

Thôi xong, gặp phải đồng nghiệp rồi. Trần Bì A Tứ thầm thở dài, ngã nhào trên mặt đất, đau đớn ngất đi.

Lão Hải kể tiếp: "Mấy người Mèo kia cuối cùng cũng không giết ông ta, mà chỉ đem Trần Bì A Tứ cùng Bát trùng bảo hàm kia giao cho đội dân phòng địa phương. Vừa may ông ta có một người chiến hữu từ hồi khởi nghĩa ở đó mấy năm phụ trách dân phòng địa phương bảo lãnh cho, nhờ đó mới không bị xử bắn, có điều mắt vẫn cứ mù. Sau này chiếc hộp kia được đưa đến bảo tàng, người ở đó vừa nghe liền phái nhân viên đến hiện trường xem xét, cũng chẳng biết có kết quả hay không. Có điều khi chiếc hộp kia được mở ra thì thấy tầng cuối cùng chẳng phải xá lợi gì sất, mà là con cá đồng này." Ông ta gõ gõ lên tờ báo, "Chẳng trách chuyện này trở thành một đòn trời giáng sấm sét. Trần Tứ gia sau khi biết chuyện thì chửi ầm lên, nói mình đã bị nguời ta giỡn mặt. Cái hộp đó có lẽ từ mấy đời trước đã bị người ta mở ra lấy mất thứ bên trong rồi. "

Trong lúc nghe lão Hải kể chuyện xưa, tôi bất tri bất giác đã uống thêm một chén rượu rồi nên có hơi chuếnh choáng, bèn hỏi: "Ông ta dựa vào đâu mà nói thế?"

Lão Hải vừa mút con ốc vặn vừa nói: "Tôi biết đâu được đấy. Trần Bì A Tứ sau đó lại đi tu ở một ngôi chùa Quảng Tây, chuyện này tôi phải nhờ đến mối quan hệ cũ mới hỏi thăm được đấy, anh bạn trẻ. Tin tức này không dễ moi ra đâu, cậu sau này có mối nào hời cũng đừng rẻ rúng lão già này đấy nhé."

Tôi chửi thầm một tiếng, bụng bảo dạ biết ngay lão đốn mạt này chẳng đời nào tốt đến thế mà. Xem ra ông ta cũng chỉ muốn lôi kéo tôi, tạo thêm mối quan hệ mà thôi. Biết ông ta đã cạn thông tin, tôi lại hỏi lần này ông đến Hàng Châu tham dự buổi đấu giá kia để làm gì.

Lão Hải giải quyết nốt con ốc vặn cuối cùng rồi chép chép miệng nói: "Năm đó loạn lạc liên miên, con cá này không biết đã lưu lạc đến nơi nào. Giờ hòa bình rồi nên rốt cuộc cũng có người mang nó ra đấu giá. Tôi vẫn hay tham gia hội đấu giá như cơm bữa, trong nghề cũng có chút ít danh tiếng nên bọn họ chịu chi phong bao dày và phát thiệp mời cho tôi. Cậu nhìn mà xem, con cá này cũng nằm trong danh sách hàng đấu giá đấy, tôi thấy cậu có vẻ hứng thú với nó nên tiện thể chuẩn bị cho cậu tấm thiệp mời thôi. Chẳng cần biết có hữu dụng hay không, cứ đi xem ai muốn mua con cá này cũng là chuyện tốt mà."

Tôi liếc một cái lên cột giá khởi điểm, 1000 vạn hả, có dở hơi mới bỏ tiền ra mua. Trên tay tôi cầm những hai con, nếu có người mua thì chẳng phải được đến 2000 vạn sao. Thời nay mấy ông tổ chức bán đấu giá cũng lăng xê món hàng quá đáng đi, chí ít cũng phải làm sao cho người ta tin tưởng chứ.

Tin tức của lão Hải mặc dù hay ho nhưng lại không phải chuyện tôi muốn biết, nhất thời không biết nói tiếp cái gì nữa. Hai người chúng tôi đều tự châm lấy một điều thuốc mà ngẫm nghĩ chuyện của mình. Nhân viên phục vụ thấy chúng tôi cứ ì ra không chịu đi, muốn chạy đến dọn bàn, tôi lại chuyển sang ân cần hỏi han lão Hải về mấy chuyện làm ăn linh tinh này nọ. Lão Hải cũng nói mấy câu muốn theo tôi xuống đấu mở mang kiến thức gì đó, cũng chẳng nhìn ra ông ta có thật lòng hay không. Tôi bảo hay là thôi đi, chính tôi đây còn chẳng định chui xuống lần nữa, ông đã già cả yếu đuối rồi thì đừng có dính dáng vào nghề này, miễn cho tự rước phiền toái vào thân, rồi lại liên lụy cả đến tôi.

Rượu tôi cũng đã uống được kha khá, bèn hỏi lão Hải lấy thiệp mời rồi bảo ông ta về nghỉ ngơi trước. Tối đến, Tần Hải Đình mè nheo đòi ra ngoài chơi, tôi là thổ địa ở đây nên từ chối cũng chẳng tiện, đành phải lái xe dẫn bọn họ đi loanh quanh mấy vòng, ăn vài món bình dân. Có điều thời tiết thật sự rất lạnh nên bọn họ cũng đòi về ngủ sớm.

Tôi lái xe về đến nhà, còn chưa lên gác đã đột ngột cảm thấy trong nhà chỉ có bốn bức tường thì thật lạnh lẽo vô cùng. Trước đây tôi chưa từng có loại cảm giác này bao giờ nên chỉ thấy kỳ lạ, không lẽ mấy lần trải nghiệm vừa qua đã khiến tôi thay đổi nhiều đến thế hay sao? Nghĩ lại thì chính mình cũng cảm thấy buồn cười, thế là tôi bèn lái xe đến thẳng quán chú Hai uống chén trà khuya.

Ngồi trong quán vừa uống trà vừa xem bút ký của ông nội, tôi vừa nghĩ đến những chuyện đã xảy ra, vẫn chỉ cảm thấy đầu óc mịt mờ. Cái chính là ba con cá này đâu có thuộc cùng một triều đại, hơn nữa vị trí địa lý cũng cách xa nhau. Tạm thời chưa tính đến công dụng của ba con cá này, chỉ riêng vị trí khai quật của chúng đã không để lại một chút manh mối nào cho người ta suy luận rồi.

Người xưa làm những chuyện này này tất phải có mục đích, bằng không thì trận địa này quá lớn, người thường sao có thể bày ra được. Tôi suy đi tính lại một hồi, cảm thấy mấu chốt chính là không biết mục đích thật sự của kẻ kia; chỉ cần biết được mục đích thì đã có vô số phương hướng để điều tra rồi.

Giá ông nội còn sống có phải tốt hơn không? Tôi thở dài. Không thì có chú Ba ở đây cũng được, ít nhất còn có người cùng bàn bạc. Hiện giờ tôi có mỗi một mình, chỉ biết nghĩ đi nghĩ lại mấy vấn đề này, đến mức bắt đầu phát ngấy lên.

Bỗng tôi ngửi thấy mùi gì khét lẹt, cúi đầu nhìn xuống thì thấy trong tờ tạp chí mình mượn đọc có in một trang bản đồ du lịch Trung Quốc. Ban nãy tôi vừa nghĩ vừa cầm điếu thuốc chỉ trỏ bên trên, vô ý châm thủng ba cái lỗ ở vị trí ba địa phương kia, đến khi tôi kịp phản ứng thì đã trễ. Tôi vội vàng dụi điếu thuốc, nhìn quanh quất bốn phía, thấy người phục vụ còn chưa chú ý đến trò phá hoại của mình thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Chú Hai tôi tuy là người thân trong nhà, nhưng tính tình rất gàn dở, làm hư đồ đạc của chú là chú sẽ trở mặt ngay. Đặc biệt là mấy cuốn tạp chí ở chỗ này, mỗi cuốn đều vô cùng quý giá, là đồ chú sưu tầm được, làm hư thì chú lại càng chửi cho đến mấy năm trời cũng chưa chịu tha ấy chứ.

Tôi giả vờ như chưa có chuyện gì, trả tạp chí lại. Vừa mới buông tay đã có một lão già cầm lên, đứng đó giở ra xem. Tôi lo ông ta sẽ phát hiện ra mình làm hỏng sách nên chẳng dám đi xa, đành ngồi phịch xuống ghế salon, nhìn ông già kia lật lật đến đúng cái trang bị tôi phá hỏng còn nóng hôi hổi, vừa nhìn thấy, không khỏi ừm một tiếng.

Nguy rồi! Tôi nghe vậy thì biết mình đã bị phát hiện, đang chuẩn bị đánh bài chuồn thì chợt thấy ông ta khẽ cười: "Ai lại châm ra thế phong thủy ở trong này vậy, thật thất đức mà."

____________

Chú thích


1. Con lừa trọc là từ dùng để miệt thị các nhà sư. Lý do là vì thời xưa nhà sư vân du bốn phương thường dắt lừa đi xin bố thí ( nhà Phật gọi là hóa duyên), nhưng cũng có một số kẻ lợi dụng danh nghĩa của người xuất gia, cũng dắt lừa đi dối gạt thiên hạ, người ta mới dùng từ "con lừa trọc" để chửi họ, lâu dần biến thành từ ngữ xấu để miệt thị nhà sư


2. Vương Bát Hạp Tử: là loại súng lục cơ bản được trang bị cho bộ binh Nhật Bản trong Thế chiến II, thiết kế bên ngoài hơi giống súng lục Ruger P08 của Đức.

Loại súng này sử dụng đạn 8mm, độ chính xác và lực sát thương tương đối cao, tuy nhiên lực xuyên thấu lại thấp, nghe nói dùng 5 lớp chăn bông là đã chặn được đạn =")))))

Ngoài ra loại súng này cần được chăm sóc bảo quản cẩn thận mới bắn tốt được, nếu không rất dễ bị kẹt đạn.


Chương 6: Đáp án đơn giản

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Giọng nói của ông lão này sang sảng, mang ngữ điệu Trường Sa, cộng thêm nội dung câu nói khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi âm thầm đánh giá ông già này, tướng mạo trông rất lạ, tuổi chừng hơn bảy mươi, người hơi gầy, vóc dáng trung bình, giữa chân mày có điểm tối. Lão mặc một chiếc áo bông cũ đã hơi nhàu, mắt kính dày như đít chai, đoán chừng cũng mù dở, cách ăn mặc này không giống những khách hàng khác trong quán. Có điều trong quán trà của chú Hai không hiếm cao nhân nên người bán hàng cũng không thấy lạ, dạo gần đây kiểu người nào mà chẳng gặp.

Tôi im lặng theo dõi hành động của lão, chỉ thấy lão cầm lấy quyển sách kia, chắp tay sau lưng trở về chỗ ngồi. Sống lưng lão thẳng tắp, bước đi nhanh nhẹn, nếu không phải người luyện võ thì trước kia nhất định đã từng đi lính. Chỗ lão ngồi còn có vài người đều đã cao tuổi, họ đang nói chuyện phiếm với nhau, vừa thấy người này trở về đều lộ ra vẻ cung kính, rõ ràng lão ta là người đứng đầu. Tôi lén bưng tách trà đi qua chỗ đám người nọ, ngồi phía sau bọn họ, vểnh tai lên nghe ngóng xem ông già kia nói gì. Ban đầu mấy ông lão bàn luận gì đó về hội cổ phiếu, nghe chẳng có gì hay ho, nửa giờ sau ông già kia nghĩ đến cuốn tạo chí mình đang cầm trên tay mới mở miệng: "Phải rồi rồi, lại đây nào, tôi cho các ông xem một chuyện thú vị".

Nói rồi lão trải tờ tạp chí ra bàn, giở đến đúng trang tôi đã làm cháy sém. Tôi thấy vậy lập tức hiểu ra người này hẳn phải biết chuyện gì đó, lập tức nín thở nghe ông già kia nói: "Các ông xem tấm bản đồ này có gì đặc biệt? Coi như đố các ông đó." Mấy ông lão xúm lại xem, nhao nhao mỗi người một ý. Không biết cái bản đồ bị thuốc lá châm mấy lỗ này có nào đặc biệt mà mấy ông già kia được dịp chém gió, thậm chí có người còn nói cái gì mà tạo thế chân vạc nữa. Ông già kia chỉ khẽ lắc đầu, tất cả đều không đúng.

Tôi nghe thế thì ruột gan cũng bắt đầu ngứa ngáy, trong lòng chỉ thầm mong lão nói ra đáp án, chứ tôi cũng đầu hàng luôn rồi. Thấy không ai nói đúng, lão già cười lên ha hả rồi đột nhiên hạ giọng nói ra một câu mà tôi không sao nghe ra được. Mấy ông già kia lập tức trở nên kích động, rồi tranh nhau xem lại tờ tạp chí.

Tôi thoáng cảm thấy buồn bực trong lòng, sao không dưng lão lại dùng phương ngữ cơ chứ, chẳng lẽ tôi không có duyên được biết chuyện này sao? Đám người kia xem xét hồi lâu đều ồ lên một tiếng như chợt hiểu ra điều gì, ruột gan tôi nóng như lửa đốt, chỉ mong bọn họ bàn luận mấy câu để tôi nhìn ra manh mối. Dựa vào khả năng của tôi, chỉ cần biết chút manh mối là có thể hình dung đại khái rồi.

Ai mà ngờ, ngay sau đó cả đám người này đều dùng cái phương ngữ kì quái kia để nói chuyện với nhau. Tôi chăm chú nghe một hồi, chỉ có thể xác định đó không phải là tiếng Hán. Móa nó chứ, mấy lão già kia rốt cuộc là người từ đâu tới?

Tôi nghe một lúc rồi không theo nổi nữa, đầu óc bắt đầu ong ong, tự nhủ các người không muốn nói cho ta nghe chứ gì, mợ nó đã thế ta đích thân đến hỏi các người xem các người làm gì được ta nào. Nghĩ sao làm vậy, tôi đứng lên đi về phía họ, đóng vai một thiếu niên hiếu học, hỏi: "Xin hỏi các vị đây là người phương nào? Sao tôi chưa nghe thấy thứ ngôn ngữ lạ lùng này ở đâu nhỉ?".

Hành động này ở Hàng Châu là cực kì đường đột, không giống như ở Bắc Kinh, người trong quán trà ít nhiều đều biết nhau. Tôi vừa nói xong, ngay lập tức đã cảm thấy hối hận, thầm nhủ không phải họ sẽ nhìn mình khinh khỉnh đấy chứ.

Không ngờ mấy lão già kia đều ngây người ra một lúc rồi phá lên cười, lão già cầm cuốn tạp chí nói: "Anh bạn trẻ, cậu nghe không hiểu cũng là bình thường, đây là tiếng người Mèo cổ, cả nước chưa tới ngàn người nói được thứ tiếng này." Tôi ngỡ ngàng hỏi lại: "Các vị đây đều là người Mèo sao? Tôi thấy không giống lắm nha."

Mấy ông lão lại cười rộ lên, cũng không buồn đáp lời, tôi thấy mấy người này đều ăn nói lưu loát, cũng không phải người vùng này, biết đâu mình có thể hỏi ra điều gì, bèn thuận miệng hỏi luôn: "Xin các vị đừng cười, vừa nãy tôi nghe lão thái gia đây nói cái gì mà bố cục phong thủy, bản đồ kia do tôi làm cháy, chẳng lẽ lại cháy thành hình dạng gì thú vị sao?" Lão già kia nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói: "Anh bạn trẻ cũng có hứng thú với thuật phong thủy sao? Môn học này chưa chắc cậu đã hiểu nổi đâu."

"Tôi có thể hiểu mà!" Tôi chỉ hận không thể quỳ xuống liếm chân lão cho lão mau mau khai ra. "Nếu không cũng mong ngài chỉ giáo cho tôi được mở mang tầm mắt!" Lão nhìn sang mấy người khác cười cười rồi đáp: "Thực ra cũng không có gì, cậu xem, cậu châm thủng ba chỗ, vị trí đều rất đặc biệt. Giờ hãy nối liền ba điểm này rồi xoay ngang nó ra rồi nói xem cậu nhìn thấy gì?" Tôi cầm lấy tờ tạp chí, vừa nhìn vào bỗng lạnh cả người, "Đây là!" Tôi há hốc miệng.

Bắt đầu từ lăng mộ trong núi Mông Sơn thời Tây Chu kéo qua địa cung phù đồ trên núi Phật Nằm ở Quảng Tây rồi đến ngôi mộ dưới đáy biển Tây Sa, tức là địa điểm phát hiện ra ba con Xà mi đồng ngư. Nối ba điểm này lại, cùng với đường ven biển Trung Quốc tạo thành một hình dạng vô cùng quen thuộc, nhìn kỹ thì thấy kia rõ ràng là một con rồng ẩn hiện! Tôi hận không thể tự vả mình một cái, thầm nhủ, Ngô Tà mày thật là ngu dốt! Sao không chịu đánh dấu trên bản đồ, chỉ chú tâm đến chuyện mấy di tích kia không cùng niên đại mà không thèm để ý đến mối liên hệ giữa vị trí của chúng chứ.

Ông già kia thấy tôi sửng sốt thì biết tôi đã nhìn ra manh mối, tỏ vẻ tán thưởng: "Là một thế 'Xuất thủy long' không được rõ ràng, nói cho dễ nghe là 'Tiềm long xuất hải', tuy nhiên thế cục này vẫn còn thiếu cái đầu rồng". Nói rồi lão cầm điếu thuốc của mình, châm lên tờ tạp chí vào đúng vị trí núi Trường Bạch.

Tờ tạp chí xèo xèo bốc khói, tôi không kịp phản ứng, đờ người ra mất một lúc rồi vội hỏi lão: "Này~ này, sư phụ, thế cục này có ý nghĩa gì?" Ông già cười ha hả, "Cậu xem, cái này gọi là nhìn ngang là đỉnh núi, dựng dọc thành dãy núi' cậu xem mấy điểm này, hợp với mạch của các dãy núi Trường Bạch, Tần Lĩnh, hệ thống núi Nghi Mông, núi Côn Lôn hướng thẳng xuống đất, được gọi là thiên long áp vĩ (nghìn con rồng chụm đuôi vào nhau). Một số long mạch dưới lòng đất của TQ liên kết với nhau, tất cả đều hợp thành phong thủyTrên toàn chiều dài long mạch, những nơi linh khí hội tụ nhiều không kể xiết, những điểm cậu châm lên đều là những vị trí mấu chốt, hay còn gọi là bảo nhãn. Bởi lẽ những long mạch này một đầu nằm dưới nước, một đầu lộ ra trên bờ nên mới gọi là "xuất thủy long".

Tuy nhiên cách xem Đại đầu phong thủy này có thực dụng hay không thì không rõ. Cách dùng phong thủy để nhìn ra long mạch khá là trừu tượng, gọi là Đại đầu long, thời xưa người ta dùng nó để bói toán, suy đoán vận thế thiên hạ, thành Bắc Kinh cũng xác định vị trí dựa vào cách này. Còn cách xem phong thủy để tìm nơi xây lăng mộ cho các hoàng đế thì lại là một mảng quá rộng, tôi cũng chỉ hiểu sơ sơ thôi. Nói đến bậc thầy trong nghề thì phải kể tên Uông Tàng Hải sống vào đầu thời Minh, đại đầu phong thủy chính là sở trường của ông ta".

Tôi nghe đến đó thì sáng mắt ra, cảm thấy thất khiếu đều đã thông suốt. Tất cả những điều trước đây tôi không nghĩ ra lần lượt tái hiện trong đầu, vì sao chuông lục giác xuất hiện ở động xác trong núi Ngũ Phần Lĩnh bên ngoài Lỗ vương cung lại cũng tìm thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển, vì sao trong ngôi mộ thời Tây Chu lại có chiếc hộp mật mã tinh xảo đến thế, vì sao xá lợi Phật cốt trong Kính Nhi Cung ở Quảng Tây lại biến thành Xà mi đồng ngư, lí do rất đơn giản, bởi vì Uông Tàng Hải đều đã đi qua những nơi này.

Bảo nhãn trong thế 'Xuất thủy long' thông thường đều là vị trí tụ tập linh khí của toàn bộ long mạch, thường thì ở những nơi đó đều có xây dựng công trình kiến trúc hoặc lăng mộ. Tuy hiện giờ tôi chưa biết ông ta đặt Xà mi đồng ngư vào những bảo nhãn này nhằm dụng ý gì, nhưng theo lý thuyết phong thủy thông thường thì toàn bộ mạch phong thủy đại long đầu này đều được sắp đặt chỉ vì "đầu rồng" trên núi Trường Bạch. Bố trí tất cả những điều này đều là vì Vân Đỉnh thiên cung, khó trách ông ta say sưa đến thế, dành nhiều tâm huyết đến thế.

Cung điện dưới trùng trùng tuyết phủ kia rốt cuộc là nơi an táng của ai?

Ông già thấy tôi ngơ ngẩn cũng không biết tôi đang nghĩ gì, bèn kêu mấy người khác đứng dậy, nhét tạp chí tới vào trong tay tôi rồi vẫy phục vụ tới tính tiền. Trong lúc xuất thần tôi không kịp phản ứng, đến khi nhớ ra mình phải hỏi cách liên lạc thì lão đã rời khỏi quán trà. Tôi vội vã đuổi theo, vừa hay lại thấy hắn tháo kính xuống. Liếc qua ánh mắt và hình dạng ngũ quan của lão, tim tôi khẽ lạc một nhịp, đứng sững một chỗ.

Một vết thương cực kì đáng sợ bắt nguồn từ khóe mắt của lão, cắt ngang qua mũi rồi kéo dài đến tận khóe mắt bên kia. Sống mũi có một chỗ lõm xuống, tựa như bị vật gì đó bén sắc cắt qua. Tôi nhìn thấy ánh mắt của lão đã sợ đến nỗi quên cả đuổi theo, thành ra để đám người kia lên xe đi mất. Tôi nghĩ lại thấy lão già này từ cách nói chuyện đã không tầm thường, hơn nữa khí huyết tràn đầy, rất có thể lão chính là người lão Hải hôm nay nhắc tới – Trần Bì A Tứ!

Lúc nãy vào bữa cơm mới vừa nhắc tới hắn, vậy mà giờ đã đụng mặt ngay trong quán trà, kể cũng khéo quá đi. Tôi ngẫm nghĩ một lát, lão Hải không dưng lại đường đột tới Hàng Châu kể cho tôi mấy chuyện này, không lẽ lão già này có mối liên hệ ngầm với lão Hải? Bày ra mấy việc này mục đích cuối cùng là muốn dụ tôi vào cuộc? Lão già này xem ra có vẻ xảo trá, phải đề phòng mới được.

Tôi thầm rủa trong lòng, lại không biết trò diễn này sẽ dẫn tới đâu, lòng tràn đầy nghi hoặc. Nhớ lại câu chuyện lão Hải đã kể, không phải lão già này đã mù rồi sao? Làm sao còn nhìn được nữa, lại còn nói chuyện rất có khí thế, nhìn chẳng giống ông lão 90 tuổi chút nào. Có điều nghĩ thông suốt được thế cục Đại đầu tiềm long, trong lòng đã dễ chịu hơn nhiều, cảm giác u ám trước kia cũng bất giác tan biến. Tôi bèn đứng lên tính tiền rồi quay về nhà thoải mái đánh một giấc ngon.

Tỉnh dậy vào giữa trưa ngày hôm sau, tôi vừa nhìn thấy cái thiếp mời đã chửi mẹ kiếp, thế là xong. Tôi gọi điện ngay cho lão Hải, ông ta cũng không nói gì nhiều, chỉ nói con cá kia không có ai mua cả. Trong lòng tôi đắc chí, thầm nghĩ chỉ có kẻ ngốc mới đi mua thứ này. Lại chuyện phiếm thêm vài câu nữa, thấy lão Hải bên kia có vẻ rất bận, xem ra đang mua khá nhiều đồ, tôi cũng không nói dông dài nữa.

Buổi chiều tôi không muốn đến cửa hàng, chỉ muốn ra quán trà đợi người kia. Không ngờ cửa tiệm của chú Ba lại gọi điện tới, nói có người tìm tôi.

Trong lòng tôi thầm nghĩ không phải lão Dương đó chứ, vội tất tả lái xe tới. Vừa vào trong tiệm đã thấy một người ngồi trên ghế sô pha dành cho khách, tôi chợt thấy mắt mình cay cay, nước mắt thiếu điều rơi lã chã, lập tức gọi to: "Phan Tử!"


Chương 7: Phan Tử

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi với Phan Tử ngồi trong cửa hàng của chú Ba cả một buổi chiều, kể nhau nghe vài điều về tình hình bản thân.

Thì ra từ trước khi tôi đi Hải Nam, Phan Tử đã dần dần khôi phục ý thức, nhưng rồi tôi đi vội quá, chỉ để lại bệnh viện số điện thoại di động nên sau khi tôi rời bến thì đương nhiên không tìm được.

Thể chất Phan Tử rất tốt, hồi phục cực kì nhanh, dù vậy anh vẫn phải nằm trên giường cả tháng, đến khi có thể xuống giường tìm gặp bọn tôi thì chẳng liên hệ nổi với mống nào. Tính ra lúc đó chắc là tôi đang ở Thiểm Tây, còn chú Ba thì khỏi phải nói, cả thế giới đều đang tìm ổng.

Tôi thấy trên tay Phan Tử quấn một dải lụa đen, liền hỏi anh làm sao vậy? Anh nói Đại Khuê cũng từng là anh em, chết đi còn chưa nổi bảy ngày, mang nó dù sao cũng nhẹ lòng đôi chút. Anh nhắc đến chuyện cũ làm tôi nhớ lại khoảng thời gian đi Sơn Đông, trong lòng không khỏi nghẹn ngào, suy cho cùng chuyến đi đó cũng do tôi khơi mào mà ra, nếu lúc đó không nhiều chuyện đưa sách lụa cho chú Ba xem thì tình cảnh mọi người giờ đây đã khác nhiều rồi.

Phan Tử thấy sắc mặt tôi thay đổi cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì, liền vỗ vai tôi nói: "Cậu Ba, chúng ta đã làm cái nghề này thì có một số chuyện muốn tránh cũng không thoát, đâu thể trách ai được."

Tôi thở dài, thầm nhủ anh nói thì dễ lắm, người hại chết Đại Khuê cũng đâu phải anh.

Xúc động một hồi, tôi lại kể cho Phan Tử nghe mấy chuyện xảy ra gần đây, anh càng nghe càng mặt nhăn mày nhíu, sau khi nghe suy đoán của chúng tôi liền biến sắc, lắc đầu bảo anh và chú Ba đã quen biết bao nhiêu năm, anh dám chắc chú Ba tuyệt đối không phải là loại người này, bảo tôi đừng có nghe người ta nói vớ vẩn.

Phan Tử đi theo chú Ba nhiều năm, cảm tình sâu đậm, có vài điều tất nhiên không thể tin nổi. Tôi bèn lảng sang chuyện khác, hỏi anh có dự tính gì không.

Phan Tử ngẫm nghĩ một hồi, nói mình vốn định quay về Trường Sa tiếp tục kiếm cơm, công việc làm ăn của chú Ba đều ở đó cả, người làm mình đều quen biết hết, trở về không sợ không có chuyện gì làm. Bây giờ nghe tôi nói vậy, anh cảm thấy chuyện này không hề đơn giản, e rằng phải tiếp tục điều tra cho rõ ràng mới có thể yên tâm.

Tôi gật đầu, tuy chuyện này về cơ bản tôi đều đã điều tra qua, nhưng Phan Tử với chú Ba có quan hệ không tầm thường, giữa họ có nhiều chuyện tôi không biết, nếu anh chịu đi điều tra thì không còn gì tốt hơn.

Phan Tử gọi mấy cuộc điện thoại, bên kia cũng bảo anh cứ ngồi chờ tin tức. Tôi nghĩ chắc phải chờ đến dăm bữa nửa tháng, không ngờ chỉ năm phút sau đã có người gọi lại. Phan Tử nghe xong, cau mày nói với tôi: "Cậu Ba, e rằng cậu phải đi với tôi một chuyến."

Tôi ngẩn người, thầm hỏi thế này là sao, không phải là có chuyện gì xảy ra đấy chứ.

Phan Tử nói tiếp: "Ông Ba tìm một người ở Trường Sa, có để lại lời nhắn cho cậu, nhưng bên đó bảo tôi đưa cậu sang để họ trực tiếp nói chuyện."

"Chú Ba nhắn lại với tôi?", tôi gần như bật dậy, bên phía Trường Sa không phải tôi chưa từng liên lạc, nhưng sao đến bây giờ vẫn chưa có ai cho tôi biết chuyện này?

Phan Tử tỏ ra vô cùng nghiêm túc, không nói gì thêm, chỉ bảo tôi: "Bên đó gấp lắm, cậu thấy thế nào, bao giờ mới có thể xuất phát?"

Anh có vẻ rất sốt ruột, tôi mơ hồ cảm thấy sự tình không đơn giản nhưng cũng không ngờ anh lại vội tới mức này. Kết quả là ngay tối hôm đó chúng tôi nhanh chóng lên tàu hỏa sơn xanh (1) đi Trường Sa, không kịp nhắn lại câu nào.

Lên tàu rồi tôi mới hỏi Phan Tử, nếu đã vội sao không đi luôn máy bay mà còn ngồi tàu hỏa, có nực cười không cơ chứ?

Phan Tử có vẻ hoảng hốt, chỉ vỗ vỗ vai tôi nói chút nữa sẽ biết. Tôi thấy trán anh túa mồ hôi thì càng cảm thấy kỳ lạ, thầm hỏi rốt cuộc anh đang căng thẳng vì chuyện gì chứ.

Tàu hỏa xuất phát từ Hàng Châu, đầu tiên dừng lại một ga khác cũng thuộc Hàng Châu. Còn ba giờ nữa là đến ga Kim Hoa, tôi đã bắt đầu mất kiên nhẫn, muốn hỏi cho ra lẽ, nào ngờ đúng lúc ấy tàu hỏa bỗng đột ngột dừng bánh.

Tàu hỏa xanh tạm thời dừng bánh là chuyện rất bình thường, lúc mua vé tôi đã nghĩ khoảng cách xa như vậy, anh không đi máy bay thì chí ít cũng phải là tàu tốc hành, ai đời cứ khăng khăng đi tàu hỏa xanh đến cái ghế ngồi cũng ê mông, nhưng Phan Tử căn bản không quan tâm đến chuyện này. Bây giờ tàu bị dừng, trong lòng tôi có phần hả hê – anh vội chứ gì, giờ tàu tạm dừng, cho anh vội chết luôn!

Không ngờ tàu vừa dừng bánh, Phan Tử liền đập tôi một cái, ý bảo đi theo mình. Tôi đứng lên định hỏi hắn đi đâu, kết quả anh đột nhiên xoay người nhảy ra qua cửa sổ tàu.

Tôi nhìn sang, chết tiệt, anh làm cái trò gì thế? Người trên tàu thấy vậy cũng giật nảy mình, đều đứng lên ngó. Phan Tử ở bên ngoài kêu to: "Cậu Ba còn chần chừ gì nữa, mau xuống đây!"

Tôi nhìn quanh bốn phía, tất cả mọi người đều ngó mình chằm chặp, thầm nhủ kiểu này ngày mai mình lại được lên trang nhất báo thành phố chứ chả chơi, cắn răng một cái rồi cũng xoay người nhảy ra ngoài.

Tàu hỏa khá cao, lúc nhảy xuống tôi bị mất thăng bằng, ngã vào bên vệ đường, Phan Tử bèn đỡ tôi dậy rồi kéo tôi chạy đi.

Một hơi chạy băng qua đồng, leo lên bờ ruộng sau đó lại vòng ra đường lớn, ở đó đã có sẵn một chiếc Pica đứng chờ chúng tôi. Phan Tử kéo tôi vào trong, thế rồi xe lập tức nổ máy.

Tôi mệt đến đứt hơi, đến khi xe chạy ra tỉnh lộ mới bình ổn trở lại, bèn mắng: "Con mẹ nó anh làm gì mà hấp tấp vậy."

Phan Tử cũng mệt hết hơi, nhìn bộ dạng của tôi, cười nói: "Cậu đừng nóng, đây cũng là lần đầu tiên tôi phải chật vật như vậy mà. Tổ sư, chả biết đã rút dây động rừng khi nào nữa, không biết có cắt đuôi nổi không."

Nói rồi anh ngó về phía sau, chỉ thấy một vùng tối đen, hình như không có ai đuổi theo.

Tôi nghe không hiểu, xem chừng việc này anh đều đã lên kế hoạch, vội hỏi anh có chuyện gì xảy ra thế. Anh châm một điếu thuốc, dùng tiếng Trường Sa nói: "Trên tàu có chim bồ câu (*), ông Ba đi vắng, Trường Sa rối như canh hẹ, đám người hoạt động ngầm (*)  chỉ chờ trời sáng (*) là lộ mặt."

(Những chỗ (*) đều là tiếng lóng của Trường Sa, mình dịch thoáng, nghĩa cả đoạn thì tác giả đã giải thích bên dưới)

Lời này ý là trên tàu hỏa có cảnh sát, chú Ba tôi không có mặt ở Trường Sa, việc làm ăn bên đó cũng rối tung beng lên, chỉ e có người bên cảnh sát trà trộn vào đám người làm.

Khi nói chuyện, ánh mắt anh không ngừng liếc qua người lái xe. Tôi hiểu ra người này chỉ là quơ tạm trên đường, không nên để lộ nhiều tin tức thành ra cũng không hỏi gì thêm. Trong lòng lại ngổn ngang trăm mối, thầm nhủ bây giờ mình đã thành cái thể loại gì đây, không phải tù trốn trại à.

Ông nội con ơi, năm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy tháng trước tôi còn là một anh tiểu thương, bỗng chốc biến thành trộm mộ đi giao lưu văn hóa với bánh tông cũng không nói làm gì, bây giờ thì thành một tên đào tẩu, cuộc đời thật là kịch tính quá đi mà...

Xe đến một huyện thành nhỏ gần Kim Hoa, chúng tôi xuống xe trả tiền. Phan Tử đưa tôi đi mua mấy bộ đồ nhỏ hơn 1 size có phần lỗi mốt để thay, soi vào gương trông giản dị hơn trước. Sau đó lại chạy đến nhà ga, mua vé chuyến tàu chúng tôi vừa nhảy xuống lúc nãy, tàu bị tạm dừng nên đến bây giờ mới tới ga.

Chúng tôi lại lên tàu, lần này mua vé giường nằm. Phan Tử nhìn toa hành khách, rõ ràng đã nhẹ nhõm hơn, nói: "Lũ cớm vừa rồi hẳn là đã xuống ở ga Kim Hoa, giờ này hai đầu tỉnh lộ cao tốc đều có chốt chặn, bọn họ tuyệt đối sẽ không lường được chúng ta lại lên tàu một lần nữa."

Lần đầu tiên trong đời tôi trở thành kẻ trốn chạy, tay chân cũng luýnh quýnh không biết phải làm sao, căng thẳng đến phát run. Tôi khẽ hỏi: "Rốt cuộc chuyện này là sao? Tại sao chúng ta đi lại bị cảnh sát theo dõi? Tôi cũng không làm gì... A, không phải, phải nói những chuyện tôi làm đáng lẽ ra người bình thường sẽ không thể phát hiện ra mới đúng chứ?"

"Tôi cũng không rõ", Phan Tử nói, "Xế chiều tôi gọi điện cho quỹ tín dụng đen của chúng ta bên Trường Sa, kết quả ông chủ bên kia nghe ra giọng tôi bèn nói đúng hai câu. Một là bảo tôi lập tức mang cậu đến Trường Sa, ông Ba có chuyện nhắn lại; hai là Trường Sa xảy ra chuyện, bảo chúng ta cẩn thận với cảnh sát, sau đó dập máy luôn. Ông chủ này là bạn làm ăn ba mươi năm với ông Ba, tuyệt đối có thể tin tưởng. Tôi nghĩ mình không quen ở Hàng Châu, ở lâu tất sinh chuyện, gì thì gì cứ về Trường Sa trước rồi tính sau."

Anh thấy tôi lo lắng, lại an ủi: "Tôi vừa lên xe đã phát hiện ngay ra mấy người mặc thường phục, liền liên hệ với một người bạn, nhờ hắn gọi một chiếc xe bám sát theo tàu. Vừa nãy tàu tạm dừng, tôi thấy lái xe đánh tín hiệu, biết có cơ hội mới kéo cậu xuống theo. Nhìn tên lái xe kia dọc đường không nói một lời, xem ra cũng là quơ đại trên đường, trước mặt loại người này cậu không thể nói quá nhiều.

Có điều lũ cớm đó không truy bắt chúng ta chứng tỏ chúng ta cũng không liên quan nhiều đến chuyện ở Trường Sa, bên phía Trường Sa hẳn đã có vài tên đầu sỏ bị tóm, còn chúng ta chỉ là hạng tôm tép. Những việc cậu làm không liên quan đến chuyện lần này đâu nên cậu cũng chẳng việc gì phải sợ, cùng lắm mình chỉ dính vào tội tiêu thụ hàng cấm thôi."

Nghe thế tôi cũng nhẹ nhõm hơn chút ít, vừa định nói cám ơn trời đất, không ngờ anh lại tiếp: "Ở Trường Sa nếu xảy ra chuyện thì lần theo đống dây mơ rễ má, ông Ba nhất định không thoát khỏi liên can. Ông chủ bên kia lại không chịu nói cho rõ ràng, mẹ kiếp cũng không biết rốt cuộc là có chuyện gì nữa? Thật ra mấy năm nay chúng ta đã hạn chế hoạt động lắm rồi, hầu như chưa từng đích thân xuống đất, chuyện trước kia cũng không thể làm lớn tới mức này được, thật sự là không tài nào nghĩ ra."

"Vậy bây giờ anh tính sao?", tôi bèn dò hỏi, ai mà muốn bỏ mạng nơi đất khách chứ.

Phan Tử nói: "Chúng ta không thể đi thẳng một mạch đến Trường Sa được, ra khỏi Chiết Giang mình sẽ xuống xe rồi bắt xe buýt đường dài đến ngọn núi gần Trường Sa. Ông Ba có vài địa điểm thu mua đồ cổ ngoài đó, đến nơi sẽ có người đón, chờ một lúc ông chủ quỹ kia sẽ đến."

Tôi gật đầu, lúc này tàu hỏa lại dừng, bắt đầu đón thêm khách. Gian giường nằm của chúng tôi có thêm một người mới đến, Phan Tử nháy mắt ra hiệu, tôi lập tức nói lảng sang chuyện khác.

Tán dóc một hồi, tôi vô tình đề cập tới chuyện Trần Bì A Tứ. Danh tiếng ông ta vang dội khắp Trường Sa, Phan Tử cũng đã từng nghe, liền nói:  "Người này cũng có công việc làm ăn riêng của mình, nghe nói sau khi bị mù lão không tự mình ra tay nữa. Sau cách mạng văn hóa, lão có thu mấy đồ đệ để giúp việc buôn bán đồ cổ với người ngoại quốc. Kẻ này rất nham hiểm, mấy tên đồ đệ đầu tiên theo lão hầu như đã bị xử bắn cả rồi mà lão còn thong dong tại ngoại, tin đồn về lão vô số, tốt nhất cứ nên giữ khoảng cách thì hơn."

Tôi nhớ đến dáng vẻ của Trần Bì A Tứ, rõ ràng trông không giống người mù, lại càng cảm thấy kỳ quái.

Chúng tôi dựa theo kế hoạch của Phan Tử, chật vật mấy lần cũng đến được vùng núi Phúc Thọ phụ cận Trường Sa, nơi đó quả nhiên tuyệt vời, phong cảnh dọc đường đẹp mê ly, Phan Tử sống ở đây mấy năm, nhìn mãi cũng thành quen. Chúng tôi vào chợ tạp hóa trên trấn, nhìn qua cứ như chỗ hội họp của mấy tay nằm vùng thời xưa, quẹo đông quẹo tây, cuối cùng đến một cửa hàng vừa nhìn là biết chả làm ăn gì được. Bề ngoài là một cửa hàng bán máy tính cũ, đẩy bức tường bên trong ra thì đến một gian nhỏ, vào sâu bên trong bắt đầu rộng rãi sáng sủa hơn, do hai gian mặt tiền của cửa hiệu dựa lưng vào nhau tạo nên một hành lang đủ rộng cho hai người đi song song, bên trên phủ vải che mưa, hai bên tường là hàng loạt giá trưng bày, trên giá đều là minh khí mới ra lò.

Có vài người đang đứng xem hàng, người quản lý nhận ra Phan Tử liền buông đồ trên tay chạy lại túm lấy anh mà hỏi: "Sao bây giờ mới đến? Mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, bao giờ các anh xuất phát?"

"Mọi thứ? Thứ gì cơ?", Phan Tử ngẩn người, vẻ mặt mù mờ.

Người kia cũng ngây ra: "Anh không biết gì sao?"

Phan Tử quay lại nhìn tôi, tôi trừng mắt nhìn lại, thầm nói ở trên địa bàn của anh mà anh nhìn tôi làm khỉ gì? Anh liền quay lại hỏi: "Chuẩn bị cái gì?"

Người kia trả lời: "Ông Ba bảo thu xếp trang bị cho năm người, có việc phải làm. Anh không biết sao?"

———————————————-

(1) Nguyên văn 绿皮火车, đây là loại tàu hỏa cũ và sắp bị đào thải ở Trung Quốc, giá vé cũng rất rẻ.


Chương 8: Đội hình mới

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử cau mày nói: "Sao tôi lại không biết gì hết? Ông Ba về rồi à? Ổng dặn lại lúc nào?"

Người nọ nhìn vẻ mặt của hai đứa chúng tôi, còn tưởng Phan Tử đang đùa với mình, nhún vai cười nói: "Bớt giả nai với tôi đi, đồ chuẩn bị cho anh hết mà anh không biết tí gì sao?"

Phan Tử phát cáu chửi một tiếng: "Tôi lừa cậu làm quái gì? Ông Ba nói sao, bảo thế từ lúc nào?"

Người kia ngắm nghía chúng tôi một lượt nữa mới hiểu ra chúng tôi thật sự không biết, cũng cảm thấy kỳ quặc, bèn nói: "Chi tiết chuyện này thế nào tôi không rõ, tôi cũng chỉ nghe ông Sở chủ quỹ tín dụng đen dặn lại thôi. Ông ấy đang ở ngay phía sau, các anh qua đó mà hỏi."

Phan Tử rầu rĩ rên lên một tiếng, dẫn tôi đi xuyên qua cái ngách nọ. Cuối ngách có cánh cửa sắt không khóa, đẩy cửa ra là thấy ngay một văn phòng bày biện sơ sài. Trong phòng, trên chiếc salon dành cho khách kê ở một bên, tôi thấy một gã trung niên đầu trọc mặt mũi bóng nhẫy đang ngồi hút thuốc. Thấy chúng tôi tiến vào, gã quăng điếu thuốc xuống đất, lấy chân di di rồi đứng lên.

Phan Tử lên tiếng chào hỏi, "Anh Sở", thái độ thoắt cái đã trở nên cung kính. Tôi lập tức ý thức được rằng đây nhất định là người được chú Ba tôi nhờ chuyển lời nhắn nhủ.

Gã quan sát Phan Tử rồi lại nhìn sang tôi, lên giọng: "Sao bây giờ mới đến, tôi đã chờ các chú hai ngày rồi đấy."

Phan Tử kể lại một lượt những chuyện trên đường, rồi không đợi gã phản ứng đã vội vàng hỏi luôn: "Anh Sở, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không lẽ chúng tôi lỡ tay chọc phải đám số má (*) rồi sao?"

(*) Tiếng lóng chỉ cảnh sát.

Gã họ Sở đáp lại không nhanh không chậm: "Tạm thời đừng hoảng, không có chuyện gì đâu. Đây là ý của ông Ba nhà chú, ông ấy bảo anh nhả ra một ít tin tức về hoạt động mua bán từ mấy năm trước, kích động bọn số má một tý, giờ này ở tổ nhà nó (*) đã lập đội điều tra chuyên án rồi. Anh cũng không biết ông ấy có dụng ý gì, nhưng xem ra ông ấy đang bố trí chướng ngại để ngáng chân một bọn người khác."

(*) Ý chỉ sở cảnh sát.

"Một bọn người khác?"

"Đúng, chỉ vì một chiêu này mà giờ toàn bộ thị trường đồ cổ đều bị liên lụy. Phàm là người có quan hệ làm ăn với ông Ba nhà chú đều bị giám sát hết, vì thế kẻ nào không nhanh tay chuẩn bị từ trước thì bây giờ sẽ hoạt động cực kỳ khó khăn. Ông Ba nhà chú đang giúp các chú tranh thủ thời gian đó."

Tôi nhìn nhìn Phan Tử, xem ra anh cũng không hiểu lắm những lời gã đầu trọc này nói: "Thời gian gì cơ?"

Đầu trọc nhún vai, ý muốn nói chính gã cũng chẳng biết. "Chú Ba cậu lão luyện giang hồ rồi, chiêu thức của ông ấy tôi làm sao đoán nổi."

Phan Tử hỏi tiếp: "Vừa rồi tôi có nghe Cửu Tứ ở bên ngoài bảo cái gì mà trang bị đã sẵn sàng rồi, nói là do ngài bố trí, chuyện này là sao vậy?"

Gã họ Sở đáp: "Nãy anh nói rồi đấy, chỉ cần anh nhả tin tức ra một cái thì người làm nghề này muốn triển khai bất cứ hoạt động nào cũng cực kì khó khăn. Cho nên ông Ba nhà chú mới dặn anh trước khi tiết lộ thông tin phải làm xong xuôi mọi việc đã. Vì vậy anh phải mua sắm trang bị cho sớm, nếu giờ này mới đi thì dân chợ đen chẳng ai dám ra tay, đến một cái đầu xẻng cũng đừng hòng mua được."

Tôi hỏi: "Nhưng mấy thứ trang bị đó mua để làm gì? Chúng em có định đánh quả gì đâu?"

Gã họ Sở đáp: "Đây chính là nguyên nhân ông Ba nhờ tôi nhắn lại với cậu," ông ta bảo chúng tôi ngồi xuống, "Thật ra những trang bị này ban đầu không tính phần cậu đâu. Nói cách khác là ông ấy chuẩn bị năm phần trang bị, trong đó có một suất cho bản thân mình."

Gã ngắt quãng một chút rồi tiếp: "Có điều lúc ông ấy gọi điện thoại cho tôi cũng từng bảo, chuyện ông ấy làm không phải chỉ có mình ông ấy nhắm đến mà còn có kẻ khác tranh giành. Đối phương cũng không phải loại hết xí quách, cho nên nếu ông ấy không về được thì phần trang bị này cứ để cậu dùng. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc của ông ấy cậu cũng phải tiếp tục làm, không thể để cho bọn người kia qua mặt được."

Một nhóm người khác ư? Tôi đột nhiên nghĩ tới công ty của A Ninh. Lẽ nào những gì chú Ba sắp đặt cho bọn họ trong cái đấu dưới đáy biển đều vì nguyên nhân này?

Phan Tử cũng hỏi: "Ông Ba có nói bọn người khác kia là ai không?"

Đầu trọc lắc đầu, trả lời: "Không nói, nhưng anh nghĩ giờ này ông Ba dễ chừng đã lọt vào tay bọn chúng lắm, bằng không ông ấy đã sớm xuất hiện rồi. Chỉ tiếc hiện giờ chúng ta mù mờ không rõ chuyện gì cả, bằng không anh nghĩ dù đối phương có lai lịch hoành tráng hơn thì chúng ta cũng chưa đến nỗi rơi vào thế bí."

Tôi thầm than một tiếng 'ôi chao', tay đầu trọc lại tiếp: "Nơi các chú phải đến là rặng Hoành Sơn thuộc dãy Trường Bạch ở Cát Lâm. Địa điểm cụ thể chỉ đánh dấu bằng tọa độ, nhưng anh đã chuẩn bị người dẫn đường bản xứ để đưa các chú đi rồi."

Nói đến núi Trường Bạch, giai đoạn này toàn bộ ký ức liên quan đến núi Trường Bạch đối với chúng tôi chỉ có Vân Đỉnh Thiên Cung của Uông Tàng Hải. Không còn nghi ngờ gì nữa, đâu đó trong rặng núi Hoành Sơn hẳn phải là nơi đặt Vân Đỉnh Thiên Cung.

Nhưng tại sao tôi lại phải đến đó chứ? Vô duyên vô cớ mà tôi lại phải đến một nơi tôi không hề hiểu rõ, lại còn vào giữa mùa đông ư?

Gã đầu trọc thấy mặt mày tôi đã sắp xanh lét như tàu lá chuối thì đột nhiên thở dài: "Nói thật chính tôi cũng hoang mang lắm, nhưng tôi đã cân nhắc cẩn thận rồi. Con đường duy nhất các cậu có thể đi hiện giờ là bám theo kế hoạch ông Ba đã chuẩn bị sẵn, như thế mới có thể tìm được manh mối. Bằng không tôi e là chú Ba cậu không qua nổi ải này mất."

Phan Tử vỗ vỗ tôi, ngoảnh lại hỏi tiếp: "Vậy theo kế hoạch của ông Ba, bước tiếp theo chúng tôi phải làm sao đây?"

Gã đầu trọc đáp: "Các chú có tổng cộng năm người, đầu tiên hãy lên tàu hỏa đi Cát Lâm, hành lý chúng tôi sẽ có cách gửi qua bên kia, cơ bản là đã đến nơi hết rồi đó."

Tôi và Phan Tử đưa mắt nhìn nhau một cái. Cát Lâm, vậy xem ra không bò lên núi tuyết là không được rồi.

Gã đầu trọc nói mình sẽ phụ trách hết những vấn đề lặt vặt cho hành trình của chúng tôi, nên chúng tôi khỏi phải lo gì cả, chỉ cần vác xác đi thôi, trên đường nhớ chú ý đừng để bị cánh sát bám đuôi là được. Thời gian chuẩn bị sẽ rất gấp gáp, sau một đêm nghỉ lại ở Trường Sa, ngày mai sẽ đưa thẳng chúng tôi lên xe lửa, từ vé xe cho đến đồ dùng vệ sinh cá nhân đều được gói ghém chuẩn bị xong xuôi cả rồi. Kế hoạch chi tiết thế nào ba người kia đều biết rõ, có thắc mắc gì ngày mai cứ việc hỏi họ là được.

Năng lực tổ chức của gã đầu trọc này mạnh đến không ngờ. Chú Ba nhờ gã đến chuyển lời, kế hoạch đề ra lúc này e rằng đã được chuẩn bị trước một thời gian khá lâu rồi. Không biết rốt cuộc mục đích của gã là gì đây?

Chúng tôi lại hỏi thêm vài vấn đề, gã đầu trọc cũng chỉ biết một chứ chẳng biết hai. Có điều theo giọng điệu của gã có thể thấy sự sắp xếp của chú Ba thật sự là hoàn hảo không một kẽ hở, đây mới là lúc để người lão luyện thể hiện khả năng.

Theo đường cũ trở ra, tôi thấy cửa hàng bên ngoài có rất nhiều màn hình máy tính cũ được vận chuyển đến. Phan Tử nói cho tôi biết minh khí được giấu ở bên trong để vận chuyển đấy, đi qua các cửa khẩu cứ đóng vào như vậy là không tra ra nổi đâu. Chuyện vận chuyển trang bị của chúng tôi đến Cát Lâm mà tay đầu trọc kia nói, có lẽ cũng thông qua cách thức này.

Ở đây Phan Tử là dân anh chị địa phương, chập tối tôi cùng anh đi ăn món sủi cảo Trường Sa. Tôi đến Trường Sa không phải mới một hai lần, cũng không còn thấy lạ miệng ngon lành nữa. Chúng tôi vừa ăn vừa thảo luận tin tức hôm nay tay đầu trọc tuồn cho, Phan Tử ngẫm nghĩ nửa ngày rồi nói với tôi: "Cậu Ba, về chuyện cậu kể với tôi ấy, tôi đã nghĩ kĩ rồi. Cái công ty tài nguyên gì gì đó chuẩn bị cho các cậu đi Tây Sa kia có vẻ khả nghi lắm, mẹ kiếp cậu bảo cái bọn người khác mà ông Ba nói có khi nào chính là bọn họ không?"

Tôi đáp: "Tôi đã nghĩ thế từ đầu rồi, có điều tôi cảm thấy vấn đề không phải ở công ty đó, mà ở kẻ đứng sau lưng nó cơ. Chúng ta cũng đừng nghĩ nữa, dù sao đến bên kia rồi chúng ta không đi tìm bọn chúng, bọn chúng cũng sẽ tìm đến tận cửa. Mà cái gã họ Sở kia có thể tin được không đấy?"

Phan Tử bèn bảo: "Cậu Ba, cậu đừng xem Phan Tử tôi như thằng lính quèn, tôi nhìn người chuẩn lắm đấy, người này cậu cứ yên tâm tuyệt đối đi. Chẳng qua tôi vẫn còn lo, ông ta nói có năm người cùng đi, không biết ba người kia là hạng người gì."

Tôi an ủi: "Chú Ba sắp xếp thì sẽ không sao đâu."

Phan Tử lắc đầu: "Khó nói lắm, ông Ba thường nói nhìn người phải nhìn đủ 365 ngày, thiếu một ngày cũng không được. (Hả? Chú giống anh Điệp Y dữ vậy chú Ba :v :v :v ) Đã là người thì sẽ thay đổi, chỉ cần một tuần cậu không nhìn đến người ta, chưa biết chừng người ta đã tính kế hại cậu rồi đấy. Đặc biệt là mấy kẻ vô văn hóa trong đám đồng đạo của chúng ta, nói khó nghe một chút thì, mẹ kiếp mỗi tay lại chẳng nợ những mấy mạng người, tâm địa thì hung ác, đến mẹ ruột còn có thể đem chôn xuống đất. Ông Ba mất tích đã lâu, đám người làm ở đây đảm bảo đã thay lòng đổi dạ rồi."

Tôi bèn bảo anh yêu cầu cao quá cũng không đáp ứng nổi, chúng ta cứ được đến đâu hay đến đó thôi.

Buổi tối ngoài đường trời trở lạnh, ăn xong chúng tôi nhất trí về ngủ trong căn phòng Phan Tử ở lúc trước. Sáng sớm thức dậy ăn điểm tâm xong thì xe của gã đầu trọc cũng tới đón chúng tôi. Tôi đứng xa xa xốc hành lý cá nhân lên lưng, nhìn vào trong xe, phát hiện ra trên ghế đã có người ngồi.

Nhìn kĩ hơn thì thấy đó là một ông già, người này mặt mũi trông rất quen, hình như tôi đã gặp ở đâu đó rồi, hơn nữa còn mới gặp gần đây thôi.

Tôi cũng không hề để ý, vừa cười cười nói nói với Phan Tử vừa bước lại gần, tới nơi mới nhìn một cái đã muốn lịm cả người đi.

Ông già kia, cứ xem hình thể và bộ trang phục quái gở thì chẳng phải ai khác, mà chính là người tôi đã gặp tại quán trà của chú Hai ở Hàng Châu – Trần Bì A Tứ!

Tôi há hốc miệng, cổ gần như cứng ngắc, thầm hỏi ông ta ngồi trong xe làm gì? Không lẽ lão già này cũng là một trong năm người? Sao có thể vô lý đùng đùng vậy chứ?

Phan Tử lúc này cũng đã nhìn thấy, lúng búng một tiếng, mặt cũng không giấu được vẻ kinh ngạc.

Gã đầu trọc gọi chúng tôi, bảo đi nhanh lên, chúng tôi ù ù cạc cạc bước lên xe. Phan Tử có quen Trần Bì A Tứ, đánh tiếng bắt chuyện với lão. Lão già kia đang nhắm mắt nghỉ ngơi, chỉ khẽ gật đầu. Phan Tử lập tức chuyển hướng sang tay đầu trọc đang lái xe, nhe răng dùng khẩu hình hỏi gã sao lại thành thế này?

Gã đầu trọc cười cười ra vẻ bất đắc dĩ, dùng khẩu hình trả lời mình cũng không biết, chính ông Ba đã sắp xếp như vậy đấy.

Không thể nào, tôi thầm nhủ. Lão già chết bầm này chẳng phải là một lão mù sao, hơn nữa số tuổi còn lớn hơn cả tôi lẫn Phan Tử cộng lại. Chú Ba đang chơi cái trò mèo gì đây?

Chúng tôi tiến vào nhà ga với tâm trạng thấp thỏm không yên. Trong lòng tôi âm thầm suy tính, người đầu tiên chú Ba an bài cho chúng tôi lại là một lão già đã ngót trăm tuổi, vậy người thứ hai là hạng người gì thật khó đoán quá, chẳng có gì chắc chắn đó không phải một phụ nữ bụng chửa vượt mặt, hoặc là một kẻ tàn phế ngồi xe lăn. (trí tưởng tượng phong phú quá =)))

Không lẽ chú Ba lại muốn thử thách tấm lòng thơm thảo của chúng tôi sao?

May thay Trần Bì A Tứ thân thể vẫn còn rất cường tráng, chắp tay sau lưng bước xuống xe. Gã đầu trọc cư xử cực kỳ cung kính với ông ta, giúp ông ta mang hành lý. Để dễ bề ứng biến, chúng tôi vẫn chọn loại giường nằm hạng bét, một phòng ngủ được tới sáu người, vừa vặn còn một giường để đặt hành lý.

Tới phòng mình, tôi thò đầu vào trong ngó nghiêng, chưa chi đã trông thấy một gã béo đang gặm mỳ tôm. Nhìn thấy tôi, hắn nhướng mày kinh ngạc hỏi: "Má nó chứ, lại là cậu à?"

Tôi lập tức thấy đầu phát nhức lên... ruột gan cũng muốn rụng ra, trong lòng tự hỏi không biết chú Ba làm thế nào mà tìm được hắn, chẳng lẽ ổng vẫn giữ nguyên đội hình trước kia sao? Tôi lập tức chuyển hướng đến cái giường phía trên Bàn Tử, quả nhiên bắt gặp một đôi mắt hững hờ không có lấy nửa điểm xao động cũng đang nhìn lại tôi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Hũ Nút (*) nheo mắt ngó tôi một cái rồi lại quay đầu ngủ tiếp.


Chương 9: Cửu Long Đài Thi

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

*Lời beta* ban đầu ham hố thuần Việt, Ctrl + R cả chương từ Muộn Du Bình thành Hũ Nút xong mới bắt đầu beta, nhưng chính mình đọc cũng thấy thốn thốn, đến chữ Hũ Nút thứ 4, 5 gì đấy thì hết chịu nổi. Không muốn tẩu hỏa nhập ma thêm nữa nên mình sẽ trả lại tên cho anh ~~~ Thật sự rất khâm phục định lực cao siêu của BTV BV khi đọc cả quyển truyện dài 700 trang với "Bình Kín Miệng" đập vào mắt liên tục "thắp nhang, vái*

Ê-đuyếch-tờ: Cô dở òm, đang vui mà cắt cái xoẹt, sao không để thêm mấy bữa nữa cho náo nhiệt =")))))) Tui thấy cái tên Hũ Nút còn hot hơn cả H văn, bữa giờ câu được cả đống comm kìa =")))))))

 ~0O0~

Tay đầu trọc bố trí cho chúng tôi đi theo tuyến đường du lịch, trước hết xuất phát từ Trường Sa đến Sơn Hải Quan, sau đó đổi tàu đi Đôn Hóa, cả hành trình đều ngồi tàu hỏa, tổng cộng mất khoảng hai ngày đường, vượt qua gần ba ngàn cây số. Trong khoảng thời gian này chúng tôi chẳng có việc gì để làm, chỉ biết giết thì giờ bằng một cái điện thoại di động và vài tờ tạp chí.

Tôi đưa chi phiếu bán viên Ngư nhãn thạch kia cho Bàn Tử, hắn liền nhìn tôi bằng con mắt hồ hởi. Thấy tâm trạng hắn khá tốt, tôi bèn vụng trộm hỏi xem vì sao hắn lại tới nơi này.

Bàn Tử bèn đáp, dấn thân vào cái nghiệp này rồi, có một số vụ không tụ tập nhau lại thì không thể làm được. Tỷ như có những đấu lớn nằm tít trong rừng xanh núi đỏ, một mình anh tuyệt đối xử lý không xong. Thứ nhất phải mang quá nhiều trang bị cần thiết, mỗi người có mỗi một cái lưng, cõng làm sao cho xuể. Thứ hai, hàng tốt nếu quá nhiều, anh một thân một mình cũng chẳng khuân hết được ra. Mà kết cấu trong những cổ mộ kiểu này thường cực kỳ hiểm ác, đổ một lần may mắn còn mạng trở ra là đã tốt lắm rồi, còn muốn mạo hiểm chui vào thêm hai ba lần nữa ư, chỉ e là không ai muốn. Cho nên nếu gặp những cái đấu như thế thì sẽ có một người đứng lên cầm đầu, thời xưa gọi là "Tróc đấu", còn thời Dân Quốc tiếng lóng trong nghề gọi là "gắp Lạt Ma".

Cái trò này giống với nghề làm thầu khoán bây giờ, nhận việc vào tay rồi tự mình tìm công nhân điện nước để làm. Hồi mới giải phóng các đội khảo cổ cũng dùng cách tương tự để chiêu mộ kỳ nhân dị sĩ.

Lần này người "gắp Lạt Ma" chính là đầu trọc. Gã đầu trọc kia quan hệ rất rộng, quen một người bạn của Bàn Tử làm cò đất(*) ở Bắc Kinh. Rất nhiều mối của Bàn Tử đều do người bạn làm cò đất này chắp nối cho, thế là dây mơ rễ má một hồi, Bàn Tử dính vào vụ này. Về phần tình hình cụ thể, theo như thông lệ, chưa đến nơi hành sự, người "gắp Lạt Ma" chưa cần phải lộ diện, bằng không lỡ để cho người ta biết sớm thì dễ dẫn tới đấu đá nội bộ. Vì thế nên khi tôi hỏi về tình hình của chú Ba, Bàn Tử lắc đầu quầy quậy, nói: "Con bà nó chứ, cậu còn hỏi tôi à? Bàn gia đây nếu biết vụ này có liên quan đến lão chú Ba chó má nhà cậu thì có chi đậm hơn nữa ông cũng éo làm đâu."

(Gắp Lạt Ma cầm đầu một vụ đổ đấu lớn, nhưng ko quen biết rộng trong giới trộm mộ, hoặc quen biết rộng, nhưng vẫn cần chiêu mộ nhiều kỳ nhân dị sĩ hơn, thì tìm qua trung gian là thổ biều tử (aka cò đất). Cò đất lăn lộn lâu trong giới, quen biết rộng, một thằng cò quen được dăm chục thằng cò khác, thằng cò khác lại quen đến dăm chục thằng khác nữa, cứ thế, tạo thành mạng lưới rộng, có thể dễ dàng với được đến những kỳ nhân dị sĩở những hang cũng ngõ hẻm hơn, chiêu mộ về cho cuộc đổ đấu lớn đầy nguy hiểm : D Nói chung, muốn đi đổ đấu lớn mà ko biết chiêu mộ ai sành đổ đấu, hãy tìm đến cò đất =))~)

Tôi thầm thở dài, tự nhủ tên Muộn Du Bình kia dĩ nhiên cũng là do gã đầu trọc liên hệ, xem ra sẽ chẳng hỏi han được gì nốt. Ở đây người hiểu rõ tình hình nhất, ngoại trừ tôi và Phan Tử, chắc cũng chỉ còn Trần Bì A Tứ mà thôi.

Muộn Du Bình trước sau như một vẫn lầm lầm lì lì, chẳng thèm chào hỏi tôi lấy một tiếng, cứ ở nguyên một chỗ mà ngủ gà ngủ gật. Tôi muốn ra vẻ ân cần mà tâm sự hàn huyên với hắn, nói được vài câu lại phát hiện hắn căn bản chẳng để vào tai. Bàn Tử bảo tôi đừng phí hơi nữa, từ lúc lên tàu hắn vẫn ngủ suốt như thế đấy.

Sau khi tàu chuyển bánh, tôi cùng với Bàn Tử và Phan Tử tụ lại một chỗ chơi spades (*), đánh bài giết thời gian. Tôi vừa chơi vừa suy xét về Trần Bì A Tứ. Lão già này sau khi lên xe vẫn chưa hé răng câu nào, Phan Tử sáp tới làm thân lão cũng chỉ "ừ" một tiếng, tàu vừa chạy là cứ thế chuồn ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở lại. Bàn Tử còn hỏi nhỏ tôi: "Lão già này là ai đấy, làm gì cứ như đang úp bài chờ ù thế?"

(Là trò này nè: http://www.games.com/game/masque-publishing/spades, cơ mà ngộkhông biết đánh á~ 囧)

Phan Tử hạ giọng kể cho Bàn Tử ít chuyện về Trần Bì A Tứ. Bàn Tử nghe nói lão đã hơn chín chục cái xuân xanh thì mặt mũi xám ngoét: "Anh đừng  bảo tôi là lão già ôn dịch này cũng đòi theo chúng ta lên núi đấy nhé. Nếu đúng là như thế thì đợi đến chỗ vắng vẻ tôi đưa lão đi tiêu hủy trước cho nhân đạo, đừng hòng đứa nào cản nổi. Dù sao để lão đi vào thì cũng chỉ có đường chết thôi."

Phan Tử vội vàng bịt miệng hắn lại, nói nhỏ: "Mẹ kiếp anh bơn bớt lời đi. Lão khọm kia tinh lắm đấy, để lão nghe thấy thì còn chưa đến nơi lão đã cho anh tiêu đời rồi."

Tôi nhớ lại chút ít về Trần Bì A Tứ. Lúc trong quán trà lão tạo cho tôi cảm giác như một bậc thầy cao thâm khó lường về văn hóa quốc gia, có một đám người phải trái vây quanh. Với thế lực và tài nghệ của hạng người này, hơn nữa tuổi đã kề miệng hố, sao lại một thân một mình đi "gắp Lạt Ma"? Không sợ bị chúng tôi hại sao?

Tôi nhắc chuyện này với Phan Tử thì hắn cười nói: "Cậu lại không hiểu rồi. Chúng ta hiện tại đều là Lạt Ma do ông Ba gắp tới, cho dù là chú tiểu hay sư trụ trì thì cũng phải để ông Ba gắp hết, đây là luật giang hồ. Lão muốn húp chung chén canh này thì phải làm theo luật, với địa vị của lão đại để là không còn cách nào khác." Anh ngẫm nghĩ rồi lại nói tiếp: "Có điều chúng ta vẫn phải cẩn thận với lão già này. Ngoài mặt thì lão chỉ có một mình, kỳ thật hạng người như lão đảm bảo là đã cài cắm bè đảng tứ phía rồi."

Bàn Tử nghe xong liền chửi: "Bố đếch hiểu nổi nữa, ông Ba nhà các anh gọi loại người như thế ra làm cái gì? Chẳng phải không dưng rước lo vào người sao? Nếu kẻ này đã tai quái như vậy, tôi thấy chúng ta nên tiên hạ thủ vi cường, hoặc trói lại hoặc là xử phắt luôn."

Phan Tử mắt nhìn cánh cửa, miệng nói: "Tôi cảnh cáo anh không được làm bậy đâu đấy. Ông Ba kéo người này đến nhất định là có dụng ý, chúng ta cũng phải nể mặt lão. Dù sao lão cũng kề miệng hố rồi, hồi trẻ có lợi hại mấy cũng chẳng ăn thua, đến lúc đó nếu thật sự muốn —- ui da!"

Anh còn chưa dứt lời, cánh tay của Muộn Du Bình đã bất thình lình thò xuống từ giường trên, tóm lấy bả vai Phan Tử. Hắn dùng sức rõ mạnh, bóp chặt đến nỗi anh ta suýt nữa đã kêu lên.

Phan Tử đau đến nghiến răng, nửa câu sau cùng chưa kịp nói ra. Chúng tôi đều sững lại một giây, Phan Tử vốn chẳng có cái thiện cảm chết tiệt gì với Muộn Du Bình, vừa định cự nự thì cửa đã kêu đánh kẹt một tiếng, Trần Bì A Tứ lừng lững bước vào.

Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau, vội cúi đầu tiếp tục chơi bài, cứ như hồi đi học bị bắt quả tang quay cóp trong phòng thi.

Lão già ngó qua chúng tôi, cũng chẳng buồn mở miệng, lẳng lặng leo lên giường mình, không biết có ngủ hay không.

Có lão ở đây, chúng tôi cũng không dám bàn bạc chuyện gì nữa, đành phải tập trung đánh bài. Thời gian cứ chầm chậm trôi, gần nửa đêm hôm sau tàu của chúng tôi cập ga Sơn Hải Quan.

Sơn Hải Quan là thiên hạ đệ nhất quan (*), có điều cũng chỉ là cảnh quan nhân tạo, phần lớn được trùng tu vào năm 1986. Chuyến tàu chúng tôi phải chuyển sang còn hai giờ nữa mới vào ga, Bàn Tử hỏi có muốn đi thăm quan không, tôi bèn bảo đã nửa đêm về sáng rồi, trời lại chẳng có trăng, xem cái con khỉ biển ấy. Vì vậy mấy người chúng tôi hòa vào đám đông người tứ xứ cũng đổi tàu như mình, đi về phía phòng chờ của nhà ga.

(Sơn Hải Quan ở đây là một cửa ải chính của Vạn Lý Trường Thành, đã được xếp hạng di tích lịch sử bậc nhất. Cửa ải này trước đây trấn giữa Trung Nguyên và vùng đất của các dân tộc du mục như Khiết Đan, Nữ Chân, Mãn Châu. Hiện nay nó là một thắng cảnh thuộc quận Sơn Hải Quan, tỉnh Hà Bắc – theo wikipedia )

Bữa nay lại đúng vào đêm trước ngày dân tình lũ lượt kéo về quê ăn Tết, người đã đông lắm rồi, bên trong nhà ga bốc mùi khó ngửi, đủ mọi loại người ở lại qua đêm, có kẻ còn cuốn chăn ngủ trên mặt đất. Chúng tôi nhón chân theo dòng người tiến vào, chỉ sợ dẫm phải người ta.

Người quá đông, đi lại lộn xộn, chẳng mấy chốc mấy người chúng tôi đã rã đám. Muộn Du Bình và Trần Bì A Tứ đứng cách chúng tôi khá xa, Bàn Tử bị mấy người dẫm chân, đứng tại chỗ chửi bới. Tôi đang định bảo bọn họ chớ để bị phân tán, giơ tay lên cho họ nhìn thấy vị trí của tôi thì đã bị Phan Tử níu lại, kéo tôi ngồi thụp xuống.

Tôi còn lơ ngơ chưa hiểu, chợt nghe anh nói: "Có cớm đấy, chú ý một chút."

Nghe vậy tôi vội vàng ngồi bừa xuống đất, trái phải cơ man là người. Tôi liếc qua khóe mắt xem thử thì thấy ngoài cửa lớn có mấy tay cảnh sát mặc đồng phục đang tra xét giấy tờ cùng vài gã dân phòng.

Tôi cúi đầu nói nhỏ bằng tiếng Hàng Châu với Phan Tử: "Có sao đâu, ở Hàng Châu cũng thường xuyên như thế, kiểm tra giấy tờ thôi mà. Chúng ta chẳng mang vũ khí trên người, cũng không bị truy nã, có gì phải sợ?"

Phan Tử hất hàm về phía mấy gã đàn ông mặt mũi bình thường trong đám người, nói: "Đó mới chỉ là bọn gác cửa thôi, lũ mặc thường phục núp trong đám đông mới đang tìm người. Cúi đầu xuống, đừng để chúng nó nhận ra."

Tôi lập tức ngẩng đầu lên nhanh như chớp, liếc qua một cái. Giữa mấy tên kia hình như còn kẹp một kẻ trông khá quen mặt. Kẻ đó nhìn quanh quất về phía chúng tôi. Tôi còn định quan sát cẩn thận hơn thì hắn đã giãy nảy lên, chỉ thẳng vào tôi hét lớn: "Kia kìa!"

Thấy trên tay người kia còn mang còng, ruột gan tôi bỗng rớt bộp xuống. Nhìn kỹ lại người nọ, cái đệt, chẳng phải là Sở đầu trọc sao? Mới có hai ngày không gặp, sao đã thành chỉ điểm cho cớm rồi?!

"Mẹ, dẫn dẫn cái kít!" Phan Tử chửi toáng lên, kéo tôi bật dậy bỏ chạy, một đám cớm chìm đằng sau dồn sức đuổi theo hô lớn: "Đứng lại!"

Chúng tôi bổ nháo bổ nhào trèo qua mấy hàng ghế, cố sức rẽ đám người mà chạy. Phan Tử xô đẩy tiến thẳng một đường, người ta đều nhốn nháo dạt sang hai bên, nhưng đến phiên tôi thì nhoáng cái đã bị những người đó bao vây lại. Tôi âm thầm gào thét trong lòng, cái khỉ biển gì thế này, bộ trông tôi dễ bắt nạt đến thế sao? (ớ hớ hớ hớ lại còn phải hỏi cơ đấy –3–)

Ngó thấy phía trước mình đã bị vây kín, đám cớm đằng sau cũng sắp đuổi tới nơi, bất thình lình tôi nghe đánh 'rốp' một cái, bóng đèn neon trên trần sảnh đợi đột nhiên vỡ vụn, mọi người hốt hoảng nhảy dựng lên, ngay sau đó lại 'rốp' một tiếng vỡ thêm chiếc nữa. Tôi thừa cơ khom lưng luồn qua giữa hai người, luồn tới lách lui trong đám đông, tính đường chen ra cửa lớn.

Bất thình lình, tôi bị một người giữ lại kéo sang bên, nhìn kĩ thì hóa ra là Phan Tử. Anh hất đầu một cái, ý bảo chúng tôi hãy chuồn ra phía đường ray.

Đèn neon trên đầu rốp rốp rốp liên tục vỡ nát, phòng chờ càng lúc càng tối, vụn thủy tinh rơi thẳng xuống đầu. Trong chốc lát tiếng người ồn ào, tiếng trẻ con gào khóc, tiếng kêu la sợ hãi xoắn vào nhau thành một mớ hỗn loạn. Rất nhiều người chen chúc ra cửa, chúng tôi cũng theo dòng người luồn ra.

Từ xa tôi đã trông thấy Bàn Tử vẫy tay ra hiệu với chúng tôi. Tôi lại gần hắn, vừa định hỏi Muộn Du Bình đâu rồi thì tên kia đã thình lình xuất hiện như oan hồn. Bàn Tử hỏi Phan Tử: "Cái đũa gắp Lạt Ma nhà anh bị cớm bẻ gẫy rồi, giờ phải tính sao?"

Phan Tử chửi một tiếng: "Đồ chó đẻ đốn mạt, chưa gì đã bán đứng chúng ta, người thời nay mẹ kiếp đúng là đéo tin được đứa nào, có dịp tôi phải đập chết gã mới được!"

Bàn Tử hỏi tiếp: "Giờ hăng máu cũng có ích gì? Anh nói xem, giờ ta tính sao đây?"

Phan Tử gãi đầu, anh cũng chẳng biết giờ phải làm sao mới ổn, lại nhìn về phía tôi. Tôi vừa định mở miệng oán thán thì Muộn Du Bình đã vỗ vai chúng tôi một cái rồi lên tiếng: "Đi theo lão già đó."

Chúng tôi nhìn theo ánh mắt hắn, thấy Trần Bì A Tứ đang đứng cách đó không xa nhìn chúng tôi, bên cạnh lão còn có mấy gã trung niên chẳng biết chui từ đâu ra.

Muộn Du Bình lập tức tiến về phía lão. Bấy giờ chúng tôi cũng chẳng còn cách nào mà bàn bạc nữa, đành phải bấm bụng qua đó cùng hắn. Trần Bì A Tứ thấy chúng tôi đi tới, bèn ra dấu cho mấy người bên cạnh. Những người kia thoắt cái lại tản ra, trà trộn trong đám đông, bản thân lão cũng quay đầu lẩn vào giữa đoàn người.

Chúng tôi nhờ đám đông che chắn, rốt cuộc cũng trốn khỏi ga Sơn Hải Quan, mò mẫm đến được một xó trong công viên. Chúng tôi dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt ai nấy đều bất ổn. Trận này thật đúng là xuất quân bất lợi, cứ ngỡ dựa theo kế hoạch của tay đầu trọc là cả đám có thể đến đích mà khỏi phải động não. Chẳng ngờ còn chưa đến hai ngày, gã đầu trọc thế mà đã bị bắt, đã thế còn đích thân dẫn đường cho cớm đến tóm cả bọn. Tình nghĩa thì như thế, còn đi lại suốt ba mươi năm trời, xem ra con mắt nhìn người của chú Ba cũng chẳng có gì hơn người ta.

Chúng tôi ngồi xổm trong bụi cỏ nghỉ ngơi một lát. Trần Bì A Tứ nhìn chúng tôi chòng chọc, đột ngột cất lên một tiếng cười lạnh, nói bằng cái cổ họng khản đặc: "Dựa vào mấy đứa chúng bay mà muốn đi đào Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ ấy hả? Ngô Tam Tỉnh già quá hóa lú rồi sao?"


Chương 10: Thôn Doanh Sơn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trong lòng chúng tôi vốn đã khó chịu, tự dưng bị mắng một câu như vậy lại càng thêm bực bội. Bàn Tử 'Hừ!' một tiếng, chửi ầm lên: "Lão già, ông nói thế là sai rồi, chuyện này liên quan quái gì đến chúng tôi, rõ ràng là mắt nhìn người của cái ông Ba gì gì kia có vấn đề, mẹ kiếp việc này sao có thể trách chúng tôi? Ông đây lăn lộn giang hồ bao lâu, đây là lần đầu tiên bị cớm đuổi cho cong mông lên chạy thế này, thật là tức chết đi được."

Tôi thấy hắn nói có phần quá đáng bèn chạy tới can, nháy mắt ra hiệu. Phan Tử không thích người khác nói xấu chú Ba, một hai câu còn có thể nhẫn nhịn bỏ qua, tốt nhất không nên nói thêm nữa kẻo xảy ra đánh lộn.

Bàn Tử coi như cũng nể mặt tôi, bèn ngậm miệng lại, rít một điếu thuốc lá rồi hậm hực thổi phù một làn khói. Phan Tử quay sang hỏi Trần Bì A Tứ: "Cụ Trần à, chúng ta trước đây kể như đã từng qua lại, giờ cũng không phải lúc phê bình chúng tôi. Ở đây ngài là trưởng bối, bây giờ chiếc đũa gắp Lạt Ma đã gãy, ngài nói xem nên làm gì mới phải? Chúng tôi sẽ nghe theo ngài cả."

Bàn Tử trừng mắt, xem chừng lại muốn gào lên: Tại sao phải nghe theo lão ta? Tôi biết Phan Tử hẳn đã có kế hoạch nên ra hiệu cho hắn đừng có nói gì cả, vội vàng kéo Bàn Tử lại, vỗ vỗ lưng kêu hắn bình tĩnh.

Trần Bì A Tứ nheo mắt quan sát Phan Tử một lượt, im lặng hồi lâu rồi cất tiếng: "Xem ra ngươi cũng biết chút phép tắc, thôi thì ta sẽ chỉ bảo cho tụi bay vài câu. Giờ không thể đi tàu hỏa được, ta đã sắp xếp một chiếc xe khác, nếu muốn tới nơi thì đợi lát nữa theo ta lên xe, còn nếu không chịu thì ai đến từ đâu tự động mà cút về chỗ đó! Nhưng ta nói trước với tụi bay, lần này đi tới nơi đó không phải chuyện đơn giản đâu. Trước kia Ngô Tam Tỉnh đến tìm ta, chính là muốn lão gia ta dạy dỗ tụi bay. Trên đời này, ngoại trừ ta, chỉ e không còn người thứ hai có thể đi vào vùng đất kia nữa."

Bàn Tử cười khẩy, "Xí! Lão già kia đừng có dọa rồ nhau, trên đời này còn có thứ gì Bàn gia ta chưa từng thấy? Nói cho lão biết, mấy người bọn ta từng lên trời hái trăng, xuống biển bắt rùa, đến bô nước tiểu của Ngọc Hoàng đại đế chúng ta cũng từng đi đổ, không phải chỉ là một cỗ Cửu Long đài thi quan thôi sao, có gì ghê gớm chứ? Ông đây hồi trước chỉ cần vỗ một cái là bánh tông trong quan tài cũng phải nhảy ra. Còn người này, ông có biết cậu ta là ai không? Chính là cháu nội của Trường Sa Cẩu vương, nhớ hồi còn ở Sơn Đông..."

Tôi vội vã véo Bàn Tử một cái, cười xòa nói: "Ngài đừng nghe hắn nói linh tinh, người này nói một câu thì nửa câu đáng quẳng vào nhà xí rồi."

Trần Bì A Tứ quay sang nhìn tôi rồi nói: "Ngươi không cần phủ nhận, ta đã biết ngươi là cháu nội Ngô Lão Cẩu rồi. Rượu mừng đầy tháng của cha ngươi ta đã từng uống rồi, tính ra ngươi cũng nên gọi ta một tiếng ông mới phải."

Ngô Lão Cẩu là danh xưng thân mật mà người trong nghề gọi ông nội tôi, ông có kể với tôi mình từng qua lại với người này, quả nhiên là không sai.

Tôi vội vã gật đầu, ngàn vạn thứ có thể đâm thông, mỗi mông ngựa là vững như tường đồng (1), nghĩ thế bèn kêu một tiếng: "Ông Tư."

Trần Bì A Tứ nghe thế bèn cười một tiếng cổ quái, cũng không biết có ẩn ý gì. Phan Tử hỏi: "Cụ Trần, bây giờ chúng ta làm gì đây? Tìm một chỗ nghỉ chân trước, hay là..."

Chưa dứt lời thì từ xa đã truyền đến hai tiếng còi ô tô một dài một ngắn, Trần Bì A Tứ nói: "Xe của ta đến rồi, muốn đi hay về các ngươi tự mình cân nhắc cho kĩ. Nếu muốn lên núi thì hãy theo ta lên xe." Nói xong liền đứng thẳng dậy, bước về phía tiếng còi ô tô vang lên inh ỏi.

Chúng tôi cũng chưa vội đi theo ngay, chờ lão ta đi xa mới quay sang nhìn nhau. Phan Tử nhỏ giọng: "Lão khọm này đã sớm chuẩn bị sẵn cứ như biết trước chúng ta ở đây ắt gặp rắc rối, tôi dám khảng định chính lão bán đứng gã đầu trọc kia. Hiện giờ người tiếp ứng bên Đôn Hóa chắc chắn đã không còn nữa, cũng đừng trông mong trang bị sớm được mang đến, muốn nắm rõ tình hình bây giờ thì mẹ kiếp chúng ta kiểu gì cũng phải đi theo lão. Chiêu này của lão thật hiểm, nhưng bất luận thế nào, chuyện ông Ba dặn dò tôi nhất định phải làm cho xong. Các người có đi hay không thì tự mình quyết định." Phan Tử nói rồi lập tức đứng lên, đuổi theo Trần Bì A Tứ.

Muộn Du Bình liếc tôi và Bàn Tử một cái, rồi cũng đứng lên đi theo Phan Tử.

Phút chốc chỉ còn lại tôi với Bàn Tử. Tôi nhìn Bàn Tử, Bàn Tử cũng nhìn lại tôi, cuối cùng Bàn Tử cất tiếng: "Phải rồi, Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ mà lão ta vừa nhắc đến là cái gì vậy?" Tôi lắc đầu, đáp: "Tôi cũng không biết." Bàn Tử miết chặt điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói: " Vậy chi bằng chúng ta đuổi theo rồi hỏi lão cho rõ nhỉ?" Tôi bật cười một tiếng, gật đầu, rồi hai người cùng đứng lên nối gót Phan Tử và Muộn Du Bình.

Đám người trung niên đi theo Trần Bì A Tứ mà chúng tôi gặp ở nhà ga quả nhiên là tay chân lão ta đã cài cắm sẵn từ trước, thu xếp xe cũng chính là bọn họ. Một chiếc xe tải Giải Phóng chạy tới đón chúng tôi, cả đám leo vào thùng xe, bên ngoài chồng hàng hóa lên ngụy trang. Xe đi một mạch đến Sơn Hải Quan, lên tỉnh lộ, thẳng hướng Nhị Đạo Bạch Hà. (2)

Trên đường đi tôi ngủ mê man không biết trời trăng gì, khi tỉnh lại đã là giữa trưa ngày hôm sau. Ô tô không tiện lợi như tàu hỏa, mới đi được hơn nửa ngày lộ trình mà nhiệt độ nơi này đã thấp hơn Hàng Châu rất nhiều. Mặc dù thùng xe có mui bằng vải buồm che chắn nhưng gió vẫn luồn vào trong, khiến tôi lạnh phát run. Trần Bì A Tứ quấn mình trong chiếc áo bành tô quân đội, có mấy lần vô ý lộ ra dáng vẻ của một cụ già, nhưng biểu cảm này chớp mắt đã biến mất. Trong lòng tôi thầm than, quả nhiên cũng đã có tuổi rồi, không biết một lão già đã ở tuổi tri thiên mệnh (*) như thế còn có mưu đồ gì nữa.

(Cái này chắc nhiều người biết nhưng cứ chú thích cho chắc. Luận Ngữ có câu "Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh", ổng đã chín mươi nhưng mà người xưa chết sớm, Luận Ngữ chỉ viết đến tuổi năm mươi nên tri thiên mệnh coi như là già lắm rồi.)

Chúng tôi cùng nhau bàn bạc cách leo núi, theo như tin tức mà Trần Bì A Tứ nhận được từ gã đầu trọc thì đến Đôn Hóa rồi chúng tôi sẽ đi ô tô hướng về Nhị Đạo Bạch Hà, ở đó sẽ có dân bản địa dẫn đường cùng với trang bị đã chuẩn bị sẵn. Sau đấy chúng tôi lại tìm đến một thôn nhỏ nằm kế bên Lật Tử Câu, đến đó gã sẽ nói cho chúng tôi biết mục đích chuyến đi rồi dẫn đường cho chúng tôi tìm tới mục tiêu, còn sau đó tìm kiếm thế nào, xuất nhập ra sao lại là việc của chúng tôi.

Hiện giờ chúng tôi chắc chắn không thể đến Lật Tử Câu bởi cớm rất có thể đã đặt chốt ở đó, hơn nữa nơi đó cũng rất gần Nhị Đạo Bạch Hà. Chúng tôi nhìn nhau, quyết định không ghé qua Lật Tử Câu nữa mà đi thẳng vào. Mé trong còn có mấy thôn, phải đi đến hết đường mới thôi.

Chúng tôi không rõ gã đầu trọc rốt cuộc biết được bao nhiêu thông tin về vị trí của thiên cung, giờ gã không có ở đây, mọi việc tự nhiên cũng khó khăn hơn nhiều. Dãy Trường Bạch rất đồ sộ, lại có một phần nằm trong lãnh thổ Triều Tiên, nếu phải lần mò từng tấc một e rằng không khả thi. Nhưng chúng tôi suy đoán, nếu kế hoạch cũ là tới Lật Tử Câu thì đích đến tất nhiên phải ở quanh đó. Chúng tôi trở ra theo con đường cũ, đầu tiên là tới mấy sơn thôn gần đó dò đường, tiện thể hỏi thăm tin tức, hẳn sẽ có thu hoạch.

Mọi chuyện cứ theo kế hoạch mà tiến hành. Cuối cùng khi tới Nhị Đạo Bạch Hà, người của Trần Bì A Tứ bắt đầu giở trang bị ra. Tôi nghĩ bây giờ trên khắp cả nước đều kiểm tra gắt gao, mấy người này sao lại thần thông quảng đại như vậy chứ. Nào ngờ mở ra thì xém ngất xỉu luôn, nghĩ bụng đây là trang bị cái khỉ biển gì chứ, không xẻng không súng ống, nhìn lại xem thứ gì chiếm chỗ nhất thì ra là mấy hộp băng vệ sinh Whisper, ngoài ra còn có dây thừng, mấy đồ linh tinh, sô cô la, một túi to toàn ớt, chậu rửa mặt... toàn là mấy vật dụng sinh hoạt hàng ngày.

Bàn Tử thắc mắc sao lại thế này, không lẽ chúng ta đang đi phát vật dụng bảo hộ lao động cho phụ nữ hay sao. Trần Bì A Tứ chỉ đáp khi nào cần dùng đến tự dưng ngươi sẽ biết những thứ này để làm gì.

Bốn ngày sau, chúng tôi tiến vào khu rừng trong núi Hoành Sơn để đến thôn Doanh Sơn. Xe tải đi được vào đây đúng là kì tích, có vài đoạn cách mép đường chừng ba mươi phân thôi là vực sâu vạn trượng, chỉ cần lái xe sơ sẩy một chút là cả đám chúng tôi thịt nát xương tan ngay. Đến nơi rồi, hỏi dân bản xứ mới biết nơi này ngày trước từng có một trạm gác của biên phòng, về sau mới bị bỏ. Vậy nên đường mới được làm tới chỗ này, bằng không chỉ có cách dùng xe trượt tuyết mới vào được đây. Cũng vì có con đường mòn nên nơi này thỉnh thoảng lại có vài du khách đi phượt, người dân trong thôn cũng quen với việc có người nơi khác thường xuyên lui tới.

Cùng theo chúng tôi tới đây có thêm ba người của Trần Bì A Tứ. Một người tên Lang Phong, chính là lái xe; một người cao to đeo kính gọi là Hoa hòa thượng(*), có điều trên người toàn sẹo từ những vết đao chém. Ngoài ra còn có một người hơn ba mươi, có vẻ nhỏ tuổi nhất, trên đường đi cứ huyên thuyên không ngừng, tên là Diệp Thành.

(Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm là một nhân vật trong truyện Thủy Hử. Người này hình xăm vẽ kín người nên có biệt danh là Hoa hòa thượng. Còn anh Hoa hòa thượng trong này người cũng chi chít hoa văn, nhưng là hoa văn từ sẹo đao chém =")) )

Chúng tôi xuống xe, nhìn khắp bốn phương đều là núi tuyết. Tôi âm thầm tìm kiếm cảnh núi tương tự với bức tranh trong ngôi mộ dưới đáy biển mà tôi còn lưu trong trí nhớ, nhưng rõ ràng nơi tôi đứng không chuẩn, nhìn ngọn núi tuyết nào cũng thấy từa tựa nhau cả.

Trần Bì A Tứ nói tầm long thì dễ, điểm huyệt mới là khó. Trong "Táng kinh" cũng nói, ba năm tầm long mười năm điểm huyệt, xác định một long mạch phải mất tối thiểu ba năm nhưng muốn tìm bảo nhãn phải mất đến mười năm. Đây là một quá trình cực kì chặt chẽ, nếu chúng tôi đã biết đầu rồng ở Hoành Sơn thì chỉ cần đi vào trong núi là tự nhiên sẽ tìm ra vị trí của bảo nhãn. Vấn đề là làm sao vào được trong núi? Vùng này không giống như những nơi khác, núi tuyết rất cao, bình thường thợ săn sẽ không đặt chân tới nơi này, người đào sâm cũng không thể leo đến đỉnh núi tuyết, muốn tìm một người dẫn đường e rằng không dễ.

Trong thôn không có nhà khách, không tìm được chỗ nghỉ chân chúng tôi đành phải tới gõ cửa ủy ban thôn. Bí thư chi bộ của thôn rất nhiệt tình, cho chúng tôi ở tạm gian nhà của người gác rừng đang bỏ trống. Chúng tôi thu xếp trả tiền nong đầy đủ, ở lại trong thôn vài ngày, thuê mấy con ngựa tốt. Sau nhiều lần vất vả, cuối cùng cũng tìm được ở địa phương một người Triều Tiên là lính xuất ngũ tên Thuận Tử đồng ý dẫn đường.

Người này cho hay, người bình thường sẽ không bao giờ lên núi tuyết bởi vì gió tuyết khôn lường, đường đi mỗi ngày một khác, hơn nữa lên đó cũng chẳng có gì hay, chỉ có bọn họ từng ở trong quân ngũ, những lúc đi tuần tra bắt buộc phải lên. Vài ngọn núi quanh đây hắn đều biết đường lên, cho nên nếu chúng tôi thực sự muốn đi thì hắn có thể dẫn đường, nhưng khi tiến vào vùng đất phủ tuyết phải tuyệt đối nghe lời hắn.

Chúng tôi thương lượng giá cả hợp lí, cuối cùng cũng thỏa thuận xong. Sau đó cả đám chỉnh đốn lại trang bị, mua thêm một đống đồ theo như yêu cầu của Thuận Tử, thế rồi đoàn chúng tôi chín người cùng mười bốn con ngựa lũ lượt tiến sâu vào trong khu rừng.

Phong cảnh trên núi Trường Bạch rất đẹp, qua mỗi đoạn đưa mắt nhìn lại đều thấy cảnh quan biến đổi. Núi cao khiến lòng người lãnh đạm, chúng tôi cũng không để ý nhiều đến cảnh sắc rừng rậm bốn bề bởi tất cả tinh lực đều tập trung để giữ cho mình không ngã xuống khỏi lưng ngựa, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn khung cảnh hùng vĩ của vòm trời và ngọn núi vẫn khiến người ta trào dâng những cảm xúc khó tả.

Núi Trường Bạch đã từng là núi lửa nên có rất nhiều suối nước nóng và hồ núi lửa nhỏ. Từ thôn Doanh Sơn tiến vào rừng, dọc theo con đường núi của công nhân, đi lên bốn giờ sẽ đến hồ A Cái Tây, người Triều Tiên gọi nó là hồ "Cô Nương". Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng, soi bóng cả dãy núi Trường Bạch xuống làn nước trong như gương.

Để Thuận Tử nghĩ chúng tôi là khách du lịch, đoàn cũng dừng lại bên hồ chụp ảnh, sau đó mới tiếp tục xuất phát. Đoạn đường chúng tôi vừa đi là phần chân dãy núi, càng đi vào sâu núi càng thêm dốc. Cuối cùng chúng tôi phát hiện mình đang đi trên sườn núi dốc 60 độ, cây cối ở nơi này đều thẳng tắp nhưng mặt đất lại nghiêng, mỗi bước đi đều vô cùng mạo hiểm. Thuận Tử nói cho chúng tôi biết tít trên đó vẫn còn một thôn bỏ hoang, chính là nơi đặt trạm gác biên phòng. Thôn này bây giờ không có người ở, đêm đầu tiên chúng tôi sẽ nghỉ chân ở đó, đến ngày mai đoàn sẽ qua vùng đất tuyết phủ.

Lúc này, hồ A Cái Tây đã nằm dưới chân chúng tôi, đứng từ trên nhìn xuống, mặt hồ ban nãy mênh mang là thế mà giờ đây trông chỉ như một cái ao nhỏ. Đúng lúc này, chúng tôi phát hiện ra còn một đoàn ngựa thồ khác xuất hiện ở ven hồ, nhân số vượt xa đoàn mình rất nhiều.

Mọi người đều cảm thấy bất ngờ, Bàn Tử lấy ống nhòm ra, nhìn xuống phía dưới rồi đưa cho chúng tôi, nói: "Chúng ta gặp phiền phức rồi đây."

——————————————————-


(1) Nguyên văn: Thiên xuyên vạn xuyên mã thí bất xuyên. Mã thí ở đây nghĩa là mông ngựa, trong cụm từ "vuốt mông ngựa", ám chỉ chiêu nịnh hót lấy lòng. Cả câu trên có nghĩa là ngàn vạn cách có thể thất bại, chứ nịnh bợ luôn luôn là vô địch, vì ai mà chả thích nghe nịnh hót ="))))))


(2) Nhị Đạo Bạch Hà: khu vực nằm ở ven rìa phía nam khu tự trị An Đồ của người dân tộc Triều Tiên, ngay dưới chân dãy núi Trường Bạch, giáp ranh với cả nước Triều Tiên lẫn thành phố Đôn Hóa. Triều Tiên ở đây là dân tộc thiểu số sinh sống ở các tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh.


Chương 11: Cảnh khốn đốn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vừa thúc ngựa tiến lên, vừa nhìn theo hướng Bàn Tử chỉ. Xuyên qua đám cây cối lưa thưa tôi thấy ven hồ có khoảng ba mươi người và hơn năm mươi ngựa đang tụ tập rất đông vui, là một đoàn ngựa thồ rất lớn. Những người đó đang dựng trại ven hồ, có vẻ muốn nghỉ chân qua đêm ngay bên bờ hồ này. Trong đám người có một cô gái đang mở thứ gì đó giống như rada ra điều chỉnh thử. Tôi nhìn qua ống nhòm, nhận ra cô gái kia không phải ai khác, mà chính là A Ninh ở Hải Nam.

Tôi chửi thề một tiếng, cô ả cũng đến nơi này chứng tỏ những gì chúng tôi suy đoán đều đúng. Người dây dưa với chú Ba chỉ e đúng là họ, không biết công ty mò thuyền vét bùn này đi vào đất liền làm gì.

Hoa hòa thượng thấy đoàn ngựa thồ dưới núi, sắc mặt liền thay đổi, nhỏ giọng hỏi Trần Bì A Tứ phải làm sao bây giờ.

Trần Bì A Tứ liếc mắt một cái, cười khinh khỉnh: "Tới đúng lúc lắm, chứng tỏ chúng ta không đi nhầm đường. Cứ tiếp tục đi thôi, mặc xác bọn chúng."

Tôi lấy ống nhòm nhìn kĩ từng người một nhưng không thấy chú Ba đâu cả. Có điều nếu chú Ba rơi vào tay bọn họ, e là sẽ không dược tự do đi lại, có khi nào đang bị nhốt trong mấy cái lều vải kia chăng? Điều khiến tôi cảm thấy không thoải mái chính là một nửa số người dưới kia hình như đều đeo súng trường K-56 (1) trên lưng, ngoài ra tôi còn thấy cả điện thoại vệ tinh và rất nhiều thiết bị hiện đại khác. Bàn Tử thấy súng phát thèm, đốp lại Trần Bì A Tứ: "Này lão già, ông cứ nói không mua súng, giờ hãy xem người ta vai vác súng, đạn lên nòng đuổi theo tới đây, nếu xảy ra va chạm thì đối phó kiểu gì? Hay là định lấy chậu rửa mặt làm khiên, dùng băng vệ sinh mà đánh bọn họ?"

Trần Bì A Tứ liếc Bàn Tử một cái, lắc lắc đầu rồi cười nói:"Làm nghề này xưa nay chúng ta chưa bao giờ dựa vào nhân số, đến vùng núi tuyết ngươi sẽ biết đi theo ta là lựa chọn chính xác."

Khi trao đổi với nhau chúng tôi đều dùng phương ngữ, Thuận Tử không thạo tiếng Hán nên không nghe ra được. Tuy nhiên Thuận Tử dẫn đường đã nhiều năm, cũng biết khách nói chuyện thì đừng nghe, nghe nhiều quá không chừng người ta giết mình diệt khẩu.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên phía trên, cho đến khi trước mắt xuất hiện mấy căn nhà gỗ tồi tàn có cửa sắt, bên trên còn viết khẩu hiệu: "Lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc là bất khả xâm phạm."

Thuận Tử cho chúng tôi biết đây là trạm tiếp tế cho những trận đánh tiền tiêu. Sau cuộc hội đàm đa phương, mấy trạm gác ở đây đều chuyển đi cả, nơi này trở nên hoang phế. Mấy trạm gác trên vùng tuyết cũng không còn ai nữa, nếu chúng tôi cứ đi lên mãi thì sẽ có cơ hội được thấy.

Màn đêm buông xuống, chúng tôi ở tạm trong này một đêm, sáng sớm hôm sau thức dậy bèn gấp rút lên đường. Thuận Tử đã cảm thấy kỳ quặc, hiếm có khách du lịch nào lại bạt mạng như chúng tôi, nhưng dù gì cũng đã nhận tiền nên vẫn thuận theo.

Khi chúng tôi thức dậy thì tuyết cũng bắt đầu rơi, nhiệt độ không khí đột ngột hạ xuống. Người miền nam rất khó có thể thích ứng với thời tiết này, ngoại trừ Bàn Tử và Diệp Thành, những người khác không khỏi cảm thấy thân thể mình đông cứng.

Cứ đi mãi rồi cũng tiến vào vùng núi phủ tuyết, chúng tôi rốt cuộc đã thấy tuyết đọng trên mặt đất. Ban đầu lớp tuyết còn mỏng, càng lên cao càng dày, cây cối ngày càng ít, các loại đá tảng lại nhiều thêm, Trần Bì A Tứ nói đó là dấu vết của một công trình đã được xây dựng ở đây.

Đến giữa trưa thì bốn phía xung quanh chúng tôi bao phủ trong một màu trắng xóa, lớp tuyết trên mặt đất dày đến độ phủ kín cả lối đi, tất cả chỉ biết đi theo Thuận Tử cưỡi ngựa ở phía trước dẫn đường.

Đúng lúc này bỗng nổi lên một trận gió to, Thuận Tử quan sát đám mây rồi hỏi nhóm chúng tôi hay là hôm nay chỉ đi đến đây thôi? Xem chừng sẽ có gió to, núi tuyết đã hơi nghiêng ngả rồi, tiếp tục đi lên có thể sẽ gặp nguy hiểm.

Trần Bì A Tứ lập tức khoát tay, bảo hắn cứ từ từ. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi, ăn chút lương khô, vài người thì ngắm phong cảnh xung quanh.

Chúng tôi đang ở trên lưng chừng một ngọn núi thấp, có thể nhìn thấy cánh rừng nơi chúng tôi bắt đầu tiến vào. Lão dõi mắt nhìn ra xa rồi chỉ vào một dải đất trũng, nói với chúng tôi. "Thời cổ khi xây lăng mộ người ta thường lấy vật liệu tại chỗ, ngươi xem mảng rừng kia rõ ràng thưa thớt hơn những cánh rừng gần đó rất nhiều, trăm năm trước chắc chắn là có người phát quang cây mà thành. Vả lại dọc đường tới đây chúng ta đi đứng hơi vất vả nhưng không có chướng ngại gì đặc biệt khó qua, gần đây chắc chắn từng có một công trình cổ đại, thế núi ở đây từng có người tu sửa. Chúng ta đã đi đúng hướng rồi, phải tiếp tục hướng lên cao nữa."

Diệp Thành hỏi: "Lão gia, dãy núi này có hơn mười ngọn đều bắt đầu từ đây đi lên, chúng ta tìm kiểu gì bây giờ?"

Trần Bì A Tứ nói: "Cứ vừa đi vừa quan sát, đầu rồng hẳn phải có điểm đặc biệt. Chỗ địa mạch ngắt quãng chính là long huyệt, nơi này nhiều núi nhưng địa mạch chỉ có một, chúng ta đang đi dọc địa mạch, không sợ không đến nơi, cùng lắm là mất nhiều thời gian thôi."

Tôi nhìn theo hướng nhìn của Trần Bì A Tứ, chỉ thấy từng mảng từng mảng cây cối, trông chẳng có gì khác nhau, trong lòng không khỏi cảm thấy xấu hổ.

Quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tôi đã thấy hắn chăm chú nhìn lên núi tuyết phía trước; đôi mày khẽ nhíu lại, tựa như đang lo lắng điều gì. Tôi biết chắc hỏi hắn bây giờ cũng như không, bèn xoay người tìm Bàn Tử nói chuyện phiếm.

Thuận Tử nghe chúng tôi nói muốn đi tiếp lên trên, bèn thở dài, lắc đầu nói nếu muốn lên cao hơn nữa sẽ không thể cưỡi ngựa, phải dùng đến xe trượt tuyết kéo bằng ngựa. Núi Trường Bạch vào mùa đông thật ra lại là nơi giao thông thuận lợi nhất, ngoại trừ những khi có bão tuyết, bình thường dùng ngựa kéo xe trượt tuyết là có thể đến bất kì nơi nào ngựa còn đi được. Nhưng một khi gió nổi lên thì chúng tôi tuyệt đối phải nghe lời hắn, hắn nói quay lại là quay lại, tuyệt đối không được có ý kiến.

Chúng tôi đều gật đầu đồng ý, lập tức dỡ hết hành lí xuống, đặt lên xe trượt tuyết. Chuẩn bị xong xuôi, Thuận Tử hô lớn rồi quất roi thúc con ngựa của mình đi trước dẫn đường, ngựa chúng tôi tự động theo sau, cả đoàn người lướt đi như bay trên đất tuyết .

Vừa mới ngồi vào xe trượt tuyết tôi cảm thấy rất thích thú, cái này cũng giống như đi bằng xe chó kéo vậy. Nhưng chỉ lát sau, không biết có phải vì gió lớn hay ngồi trên xe trượt không thể nhúc nhích mà tứ chi đều lạnh run lên, thân thể cứ như mất hết tri giác. Vì đây là đường núi nên ngựa chạy không được êm, cứ xóc nảy liên tục. Bàn Tử vì quá nặng nên mấy lần bị lật xe, ngã dúi vào đống tuyết làm chúng tôi cũng lại phải dừng lại chờ.

Chúng tôi cứ chạy mãi như thế cho đến khi màn đêm dần buông, gió càng lúc càng mạnh, ngựa chạy ngày càng chậm. Chúng tôi phải đeo kính chắn gió mới có thể nhìn rõ phía trước, khắp nơi đã trắng xóa một màu không biết là tuyết rơi trên trời xuống hay là tuyết lở trên núi xuống. Tiếng gió thổi vù vù bên tai, muốn nói một câu thôi mà mới mở miệng ra gió lạnh đã thốc thẳng vào vòm họng, nói theo cách của Bàn Tử là mấy câu chửi thề cũng muốn đông cứng lại trong cổ họng rồi.

Chạy một hồi lâu, cuối cùng con ngựa dẫn đầu của Thuận Tử cũng dừng lại. Tôi mơ hồ thấy có gì đó không ổn, bây giờ mới 2h chiều, sao trời đã xám xịt như tro rồi? Chúng tôi chạy ngược gió, nhanh chóng bắt kịp Thuận Tử, chỉ thấy hắn vừa xoa xoa cổ vừa quan sát bốn phía, mặt nhăn mày nhó.

Chúng tôi vây lấy Thuận Tử hỏi hắn xem có chuyện gì, hắn tặc lưỡi một cái: "Gió to quá, hơn nữa nơi này hình như đã xảy ra tuyết lở, nhìn không giống lần trước tôi đi qua. Còn nữa, mọi người nhìn xem, trước mặt toàn là tuyết từ trên núi lở xuống, vừa dày vừa xốp, tiến lên một bước là tuyết ngập đến tận bụng ngựa, lũ ngựa không chịu đi qua đâu. Loại tuyết này bên trong còn có bọt khí, rất dễ sụp xuống, cực kì nguy hiểm, nếu đi tiếp sẽ không thể tụ tập cùng nhau."

"Vậy phải làm gì bây giờ?" Phan Tử nhìn trời, "Xem chừng thời tiết hôm nay không tốt, có nên quay về không?"

Thuận Tử hết nhìn bầu trời lại nhìn sang chúng tôi, nói: "Cũng chưa chắc, nhưng một khi gió nổi lên thì phải ít nhất hai ngày hai đêm mới tạm ngừng, nếu chúng ta cứ ở lì lại đây thì chỉ có con đường chết. Không xa về phía trước có một trạm gác biên phòng bỏ hoang, chúng ta có thể vào đó tránh gió tuyết. Tôi thấy bây giờ có muốn quay lại cũng không kịp nữa rồi, chỉ còn cách đi bộ qua đó thôi."

Bàn Tử đè chặt cái mũ che tai trên đầu, nhón chân tiến thử một bước, kết quả bị lún vào tuyết đến đùi. Hắn chật vật nhích lên từng bước, chửi thề: "Con bà nó chứ, cứ như hành xác."

Chúng tôi xỏ giày đi tuyết vào chân, ngược gió mà kéo xe trượt ngập sâu trong tuyết, chật vật tiến lên. Chỗ này là đầu ngọn gió, nằm chính giữa hai sườn núi, gió rất lớn chả trách sao có tuyết lở. Chúng tôi hướng về phía đầu ngọn gió, Thuận Tử nói cứ đi khoảng một tiếng nữa sẽ tới trạm gác, nhưng lại không tính tới chuyện chúng tôi đang ì ạch tiến lên như rùa. Mà hình như Thuận Tử đã nhầm đường, chúng tôi đi hơn 6 tiếng, đến khi trời chạng vạng vẫn không thấy bóng dáng cái trạm gác kia đâu.

Thuận Tử bối rối đi qua đi lại, bỗng "Ai da!" một tiếng: "Xong rồi, tôi biết trạm gác ở đâu rồi!"

Chúng tôi vây quanh, thấy sắc mặt hắn cực kì khó coi: "Sao tôi lại không nghĩ ra chứ, chỗ này vừa có tuyết lở, hẳn là trạm gác bị tuyết vùi mất rồi. Có khi nó nằm ngay dưới chân chúng ta cũng nên, bảo sao tìm nửa ngày trời mà không thấy!"

Phan Tử thở dài, nói một câu, dựa theo khẩu hình chính là: "Mẹ cái đất chết tiệt này!"

Bàn Tử gào lớn hỏi Thuận Tử: "Vậy bây giờ tính sao? Ngựa thì không có, lẽ nào chúng ta phải chết ở đây sao?"

Thuận Tử chỉ chỉ về phía trước: "Còn một hi vọng cuối cùng, tôi nhớ gần đây có một suối nước nóng nằm trong một sườn núi, nhiệt độ rất cao. Nếu có thể đến đó, chúng ta có thể ăn lương khô sống tạm vài ngày, suối nước nóng kia tương đối cao, chắc vẫn chưa bị tuyết vùi. Chẳng may tìm không được thì chỉ còn cách dựa vào ý chí sinh tồn, từng bước từng bước một mà quay về.

"Anh có dám chắc chắn không đó?" Bàn Tử bắt đầu không tin tưởng Thuận Tử.

Thuận Tử gật đầu: "Lần này tuyệt đối không sai, nếu không tìm được suối nước nóng thì anh cứ trừ tiền công của tôi."

Tôi cười khổ trong lòng. Con mẹ nhà anh chứ, nếu thực sự phải trừ tiền công của anh thì chỉ e đến kiếp sau chúng tôi mới có cơ hội.

Mọi người đeo lên vẻ mặt như đưa đám, theo Thuận Tử tiến lên trên. Càng đi trời càng tối, Thuận Tử lấy dây thừng ra buộc vào từng người chúng tôi. Do tầm nhìn bị hạn chế, không thấy rõ người, gọi cũng không nghe tiếng nên chỉ còn cách dùng dây thừng mới có thể tập hợp chúng tôi lại một chỗ.

Tôi đi mãi đi mãi cho tới khi mắt hoa lên, không thể nhìn rõ được nữa. Người phía trước càng lúc càng xa, người đằng sau càng lúc càng tụt lại. Tôi nhìn trước nhìn sau đều không thấy bóng người, trong lòng trống rỗng, thầm nghĩ phải chăng lên núi vào lúc này là một sai lầm, không lẽ mình phải bỏ mạng ở đây? Không đâu, bước đi của Thuận Tử vẫn rất ổn định, tuy tôi không nhìn thấy hắn nhưng có thể cảm nhận được hướng đi của sợi dây thừng truyền lại rất kiên định, hẳn là đã quen đứng vững trong gió tuyết, chắc đi theo hắn sẽ không sao đâu.

Tôi vừa tự an ủi mình vừa tiếp tục tiến về phía trước, chợt thấy trong màn tuyết trước mặt xuất hiện một bóng đen mờ mờ ảo ảo, thoạt nhìn không thể nhận ra là ai. Đi được vài bước, bóng đen kia đột ngột nghiêng ngả rồi ngã nhào xuống tuyết. Tôi vội vàng chạy tới xem xét, thì ra người gục xuống tuyết đó chính là Thuận Tử.

Muộn Du Bình từ phía sau cũng vừa đuổi kịp, thấy đó là Thuận Tử bèn nhanh chóng đỡ hắn đứng lên. Chúng tôi khoác vai Thuận Tử rồi kéo mạnh dây thừng để những người khác nhanh chóng tập trung lại.

Bàn Tử vừa nhìn thấy Thuận Tử, nét mặt đã trở nên vô cùng cổ quái, hét lớn: "Con mẹ nhà hắn làm dẫn đường kiểu gì vậy? Không biết đường cũng chưa nói, đằng đây chúng ta còn chưa ngất hắn đã xỉu rồi. Chúng ta biết làm sao bây giờ?" Hắn còn định mắng tiếp nhưng nửa câu sau đã bị một cơn gió vừa thổi tới cuốn đi mất.

Tôi phóng mắt nhìn ra xung quanh, trời đất ơi, tình hình bây giờ đã không kiểm soát được nữa rồi. Gió dữ cuốn theo vô vàn bông tuyết đập vào nham thạch, vờn quanh chúng tôi, cách một mét đã không thấy gì, đến cả những dấu chân cũ của chúng tôi cũng bị gió thổi bay biến. Chúng tôi không thể phân biệt  phương hướng, mỗi khi gió dữ thổi qua, đến đầu cũng không ngẩng lên nổi, bây giờ mà đứng lên sẽ bị gió thổi bay mất.

Mặt mũi ai nấy đều trắng tái, mắt Trần Bì A Tứ còn nổi cộm lên, xem ra lão già này gặp phải hoàn cảnh khắc nghiệt cực độ đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê rồi. Nếu Thuận Tử không ngã xuống thì chắc lão cũng không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Phan Tử nói: "Chúng ta không thể đứng đây chờ chết, suối nước nóng có lẽ ở ngay gần đây thôi. Chúng ta sẽ nối thêm dây thừng, tản ra tìm kiếm, ai tìm được thì kéo dây thừng làm tín hiệu."

Mọi người tản ra xung quanh, tôi cũng không biết mình đang đi về hướng nào, mới đi vài bước đã hoa mắt chóng mặt, cảm giác tê dại theo tứ chi truyền khắp thân thể. Trước đây tôi xem rất nhiều phim đều nói ở trên núi tuyết, người ta càng đi sẽ càng nguy khốn, lỡ ngủ quên thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại. Có người còn sinh ra vô vàn ảo giác, ví dụ như trước mặt hiện lên bát cơm nóng hổi chẳng hạn.

Tôi ra sức nhắc nhở bản thân phải tỉnh táo, nhưng lại không thể kiên trì cho nổi. Mỗi bước đi là mắt giống như đeo thêm một khối chì, nặng nề đến nỗi chỉ chực cụp xuống.

Đúng vào lúc ai nấy tưởng chừng mất hết hi vọng, đột nhiên lại nghe Bàn Tử kêu lên một tiếng, do gió quá mạnh nên không nghe rõ hắn kêu cái gì. Tôi nhìn lại, chỉ thấy bóng hắn thoắt cái đã biến mất. Muộn Du Bình lập tức quay đầu, phái hiện dây thừng trên mắt đất đột ngột bị kéo mạnh, mặt lập tức biến sắc, thét to: "Không xong rồi! Mau cởi dây thừng, có người thụt xuống hố tuyết!"

Lời còn chưa dứt, tuyết dưới chân hắn đã đột ngột sụp xuống, cả người hắn bị dây thừng kéo vào hố tuyết, kế đến là tôi – người đứng gần hắn nhất. Chúng tôi bị Bàn Tử kéo vào trong tuyết từng người một giống như một chùm nho, cứ lăn lông lốc không biết bao lâu mới dừng lại.

Mắt tôi bị tuyết bịt kín, không tài nào mở ra được, chỉ nghe tiếng Phan Tử bảo mọi người đừng nhúc nhích. Anh ở cuối dây thừng, đợi anh bò xuống rồi tính sau.

Đúng lúc này, đột nhiên nghe tiếng Diệp Thành kêu lên: "Khoan đã! Tiên sư nó, đừng ai đi xuống, trong đống tuyết kia có cái gì vậy?"

———————————————

(1) Nguyên văn là "五六式步枪"


Chương 12: Bách túc long

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vuốt vội mấy hạt tuyết bám trên mí mắt xuống, nhất thời không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy lưng hình như va phải đá nhọn; Diệp Thành ở phía dưới đang kêu gào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, theo bản năng nhìn xuống xem Diệp Thành đang sợ hãi cái gì. Nhìn kĩ thì phát hiện chúng tôi đang ở bên mặt của một sườn núi dốc đứng lởm chởm đá, cách chân dốc chừng năm, sáu mét, sợi dây thừng buộc ở thắt lưng mắc vào một khối đá giúp chúng tôi không tiếp tục lăn xuống. Đáy dốc toàn là đá tảng và tuyết lở theo khi chúng tôi ngã xuống đây, trong đống tuyết lộ ra mấy cái chân khẳng khiu đen đúa dài ngoằng.

Tôi suýt nghẹt thở, bất giác dán chặt lưng vào tảng đá phía sau. Dịch tầm mắt lên phía trên đống chân, lấp ló bên dưới lớp tuyết dày là một vật gì đó màu đen đang cuộn tròn, kích cỡ tương đương cái thùng đựng nước, trên thân thể nhiều đốt phủ kín vảy, một phần giấu trong tuyết, một phần lộ ra ngoài. Thoạt nhìn tôi còn tưởng đó là một con rắn đang ngủ đông, nhìn kĩ lại thì thấy từa tựa con rết. Thứ này kề sát tảng đá, không hề động đậy, chẳng biết còn sống hay đã chết, không thấy đầu đuôi, cũng chẳng rõ nó dài bao nhiêu nữa.

Trong lòng tôi cảm thấy kì lạ, nơi này đã là vùng núi phủ tuyết, bình thường rất hiếm gặp sinh vật sống, đây rốt cuộc là cái giống gì? Nhìn cái đầu cùng với đống chân trông như chân rết của nó, bản năng khiến tôi nảy sinh cảm giác không thoải mái.

Phan Tử khăng khăng đòi xuống xem, Diệp Thành thì luôn mồm la oai oái. Bàn Tử cũng thấy thứ nằm bên dưới, bèn vơ một nắm tuyết cạnh mình vo tròn thành khối cầu rồi ném bốp một cái vào gáy Diệp Thành, nhỏ giọng mắng: "Đệch mợ anh be bé cái mồm cho tôi nhờ, muốn đánh thức nó hả?"

Tôi xem xét bốn phía, nơi này hẳn là một khe núi nhỏ bị tuyết lở lấp kín, do thế đá quá lộn xộn nên tích tụ khá nhiều bọt khí. Vừa nãy Bàn Tử đã giẫm phải lớp tuyết mỏng manh, kích phát phản ứng dây chuyền khiến cả tầng tuyết sụp xuống, kết quả là cả đám đều bị hắn kéo ngã theo. Lớp tuyết bên trên vẫn không ngừng sạt lở, nhiều khi sụp xuống rồi mà tuyết xung quanh cứ tiếp tục chảy xuống giống như cát trên sa mạc, chẳng mấy chốc đã chôn vùi nơi bị sập một lần nữa, quá trình này chỉ xảy ra trong chớp mắt. Rất nhiều đoàn thám hiểm núi cao vì thế mà tổn thất quân số, trong vài giây ngắn ngủi cả nhóm đã hoàn toàn biến mất. May cho chúng tôi là tuyết xung quanh có vẻ rắn chắc, cũng có thể do chúng tôi dùng dây thừng buộc cả đám lại với nhau.

Nơi này khuất gió, cơn cuồng phong vào đây rõ ràng đã yếu đi nhiều, không còn lạnh buốt như vừa nãy. Tôi thoải mái hít thở vài hơi, cẩn thận ngồi xổm, nhích xuống dưới vài bước. Nơi này tuy dốc đứng nhưng mặt ngoài sườn núi đều là đá vụn gồ ghề, có tảng to bằng cái xe tải, có viên chỉ nhỏ như quả bóng bàn, leo trèo rất tiện, lên xuống đều không quá khó khăn.

Phan Tử và Muộn Du Bình đã tháo dây thừng, do đứng cách chân dốc không xa nên hai người bọn họ nhảy ào ào xuống, kéo theo cả tuyết. Rơi xuống rồi, họ lăn vài vòng đến tận chân dốc để giảm dư chấn. Hai người rón rén đứng lên, một trước một sau chạm vào vật màu đen kia, khiến tim chúng tôi tưởng chừng nhảy vọt lên cổ họng.

Đi được vài bước, Muộn Du Bình và Phan Tử đểu duỗi thẳng lưng, rõ ràng đã trấn tĩnh lại. Phan Tử liếc Muộn Du Bình một cái, nhún vai rồi ra hiệu cho chúng tôi xuống theo.

Trong khi mọi người còn đang nghi hoặc, Bàn Tử đã cởi dây thừng lăn xuống. Muộn Du Bình gạt lớp tuyết đọng lên thạch điêu trên mặt đất, thì ra đó là hình một con rồng nằm phủ phục trên đá được chạm lên một tảng đá đen. Thạch điêu này chạm khắc vô cùng sinh động, nếu vùi sâu trong tuyết thì quả là không thể nhìn ra.

Chúng tôi cũng lục tục kéo nhau xuống. Trần Bì A Tứ nhìn thấy thạch điêu, sắc mặt lập tức biến đổi. Lão không đứng nổi, phải nhờ Hoa hòa thượng đỡ mình đến trước thạch điêu mài từ đá núi, bắt đầu lần mò. Con rồng này có vài điểm khác biệt so những con rồng bình thường, dưới thân nó khắc vô số chân trông như chân rết, rõ ràng không phải là tác phẩm điêu khắc của trung nguyên, có lẽ là dị bản hình rồng của một dân tộc du mục nào đó quanh vùng này.

Bàn Tử hỏi tôi: "Sao con rồng này xấu như ma thế, trông giống côn trùng hơn là giống rồng. Nhìn qua là thấy tà khí ngút trời rồi, còn không đẹp bằng hình rồng khắc trên tường cố cung, hay đây là bản khắc hỏng?"

Hoa hòa thượng đáp: "Không biết thì đừng có nói bậy. Đây là Bách túc long (1), không phải Bàn long (2), những họa tiết hình rồng của nước Đông Hạ thời kì đầu đều có dạng này. Ngày xửa ngày xưa, vào thời viễn cổ, rồng Trung Quốc mang nhiều hình dạng khác xa bây giờ, thậm chí còn có hình rồng mũi heo, cỡ này vẫn chưa phải là quái đản đâu". Rồng Trung Quốc đã trải qua một khoảng thời gian tiến hóa rất dài, ban đầu rồng vốn là loài bò sát dưới đất, tiện tay ghép một cái đầu thú với thân rắn là ta có con rồng. Lúc ấy mỗi bộ lạc đều có đồ đằng rồng của riêng mình, họ phát triển theo những chiều hướng khác biệt thành ra hình dạng rồng cũng không giống nhau. Sau này văn hóa của người Hán lưu truyền rộng rãi, văn hóa Di, Hạ (3) cũng hợp lại với nhau, hình dạng con rồng của người Hán mới dần hòa trộn với rồng của các dân tộc thiểu số. Đến cuối cùng, rồng từng bước thống nhất lại thành hình dạng Bàn long như bây giờ.

Con Bách túc long này chính là hợp thể của rồng và rết, không hiểu vì sao nhưng nhìn một cái thân rồng bình thường mọc ra một đống chân rết, chẳng những không thể hiện được sự uy vũ mà ngược lại còn khiến cho người ta nảy sinh cảm giác cực kì khó chịu, cảm thấy có phần quỷ dị.

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng giới thiệu xong liền cười nói: "Mặt Sẹo (4) à, thật không ngờ anh cũng đầy bụng chữ nghĩa nha. Tảng đá này hẳn là của cái nước Đông Hạ đó hả?"

Hoa hòa thượng ngắm nghía thạch điêu rồi lại ngẩng đầu nhìn sườn núi phía trên, ngờ vực nói: "Phải, có điều không biết khối đá khắc hình rồng này là từ đâu tới?"

Lúc này trời đã tối đen, chúng tôi đều bật đèn pin, một tay cầm đèn một tay gạt hết lớp tuyết phủ trên phiến đá kia xuống. Bấy giờ mới phát hiện ra đó là một khối đá bằng khổng lồ cao năm mét rộng ba mét, một mặt tựa vào sườn núi lởm chởm đá. Khối đá này cực kì bằng phẳng, lại còn đen tuyền một màu, không giống chất đá xung quanh chút nào.

Tôi xem xét chỗ nứt trên khối đá, nói: "Có thể khối đá này từ bên trên sụt xuống, ông Tư nói không sai, đích đến của chúng ta vẫn còn xa tít trên kia. Mọi người xem, con rồng này hình thể không cân đối, đây gọi là song long hí châu, vậy thạch điêu này có lẽ vẫn còn một phần nữa, thông thường sẽ khắc trên cửa đá, hai mặt như một."

Trần Bì A Tứ ho khan một tiếng, cất giọng yếu ớt: "Nói láo! Hiểu biết nông cạn mà cũng đòi khua môi múa mép. Cửa đá cái đầu mi, khối đá này chính là phong thạch của mộ đạo."

Nói rồi lão chỉ chỉ vào miệng rồng, Hoa hòa thượng lập tức đi tới, thò tay vào miệng rồng kéo mạnh một cái, nhưng chỉ kéo ra được một sợi xích sắt màu đen to cỡ cổ tay. Bàn Tử thấy thế liền nói: "Ai dà, thôi xong, ruột rồng cũng bị anh lôi ra cả rồi."

Trần Bì A Tứ tiếp: "Lúc niêm phong mộ thất người ta dùng sợi mã liệm (5) này để kéo khối phong thạch kia, chứng tỏ đây là mặt quay vào trong."

Tôi bị lão mắng đến đỏ mặt, giả bộ nhìn quanh: " A, đúng là cháu nhầm rồi, nhưng tại sao phong thạch lại xuất hiện ở chỗ này chứ?"

Hoa hòa thượng dùng sức kéo mạnh sợi xích sắt nhưng tảng đá vẫn trơ ra không suy suyển. Nét mặt Trần Bì A Tứ cũng hiện lên tia nghi hoặc, lão lắc đầu, ngẩng cổ nhìn lên trên. Trong lòng tôi thầm than một tiếng, biết rõ lão đang lo lắng điều gì. Nếu khối phong thạch này từ trên kia rơi xuống, chẳng phải là minh chứng cho thấy mộ đạo phía trên đã bị phá hủy nghiêm trọng rồi sao? Chúng tôi dù có tìm ra nó thì chắc gì đã vào được?

Trên đầu bão tuyết vẫn đang thét gào, bầu trời đen kịt hẳn đã vào đêm. Tôi nhìn quanh quất, không biết trận bão tuyết này còn kéo dài bao lâu nữa.

Phát hiện ra khối thạch điêu này, mọi người càng thêm tin tưởng mình sẽ tìm ra thiên cung, nhưng tôi cũng không biết mình nên phấn chấn hay là chán nản. Hoa hòa thượng chụp lại thạch điêu, Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại tinh thần, dặn chúng tôi trước tiên phải giữ gìn đồ đạc cá nhân cho kĩ, mệt mỏi thì nên nghỉ ngơi một lát. Nơi này vừa hay lại khuất gió, muốn làm gì thì cũng phải đợi gió ngừng rồi tính sau.

Chúng tôi bỏ trang bị ra kiểm tra lại, còn Hoa hòa thượng đi chăm sóc người bị thương kia. Tôi vừa lôi ra mấy thứ đồ thì hắn đã chạy tới bảo phiền phức rồi, Thuận Tử hình như không còn phản ứng.

Chúng tôi lay lay Thuận Tử, lắc thử đầu hắn. Hắn chỉ có thể trì trệ "A~" một tiếng, ý thức mơ hồ, vừa nhìn qua đã biết thân thể bị mất nhiệt.

"Chúng ta mau đốt lửa lên, bằng không hắn không chịu đựng nổi nữa đâu" Phan Tử lại gần, "Đã ngủ bấy lâu vẫn chưa chịu tỉnh lại."

Tôi nhìn quanh quất bốn phía, căn bản không đào đâu ra củi, nếu muốn nhóm lửa có lẽ phải đốt xe trượt tuyết. Nhưng mà lên núi tuyết cần mang theo rất nhiều trang bị, không có xe trượt tuyết, chặng đường về sao chỉ e không thể đi tiếp.

Hoa hòa thượng nhìn Trần Bì A Tứ, rõ ràng không dám tự quyết. Trần Bì A Tứ sắc mặt cũng tái mét, không biết vì lạnh hay vì lý do nào khác, nhíu mày nói: "Tạm thời không thể để hắn chết, ta còn có chuyện phải hỏi."

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng bèn dỡ đồ đạc trên xe trượt tuyết xuống, chuẩn bị lấy gỗ nhóm lửa. Nhưng giờ này xe trượt tuyết cũng bị tuyết thấm ướt, không biết có còn bắt lửa nữa không.

Trong cơn lo lắng, tôi bất chợt ngửi thấy một mùi giống như lưu huỳnh, mùi này không biết từ nơi nào xộc tới khiến tôi giật nảy mình. Hoa hòa thượng ra hiệu đừng nhúc nhích, còn bản thân mình thì đứng lên, cẩn thận nghe ngóng. Những người khác cũng đồng thời ngửi thấy mùi này, ai nấy đều dừng hết những việc đang làm. Bàn Tử hít sâu một hơi, nói: "Các đồng chí, hình như có mùi của suối nước nóng!"

Trần Bì A Tứ đưa mắt ra hiệu cho Diệp Thành và Lang Phong, ý bảo bọn họ ra ngoài tìm kiếm. Bàn Tử đeo ba lô lên tỏ ý cũng muốn đi, kết quả là cả ba đều bị Phan Tử cản lại. Bàn Tử hỏi: "Chuyện gì?", Phan Tử hất cằm về phía Muộn Du Bình: "Các anh vội cái gì chứ, đừng quên chúng ta có cao thủ."

Lúc này Muộn Du Bình đã cúi người xuống, dùng hai ngón tay dài khác thường của mình lần mò tảng đá dưới chân, bỗng "A?" một tiếng rồi chuyển hướng sang khối phong thạch khắc hình Bách túc long.

Chúng tôi vòng ra mặt trước khối đá Bách túc long, trước đó chỗ này hoàn toàn không có mùi gì, bây giờ lại ngửi thấy mùi lưu huỳnh hết sức rõ ràng. Muộn Du Bình sờ lên đầu rồng, lại nhìn ra đằng sau khối đá, bàn tay đặt lên đầu rồng thả ra rồi lại ấn xuống, nói: "Lạ thật, phía sau cái đầu rồng này trống không."

—————————————————


(1) Bách túc long: nghĩa đen là rồng trăm chân, đây không phải hình bách túc long trong truyện, chỉ là hình ảnh tương tự mình tìm trên mạng để cho dễ hình dung cái con quái này =)))


(2) Bàn long: có nghĩa "rồng cuộn", chỉ hình rồng hiện tại của Trung Quốc:


(3) Di là từ người Hán dùng để chỉ các dân tộc sống phía bắc Trung Quốc, Hạ trong Hoa Hạ, chỉ người Hán.


(4) Nguyên văn nick name của ổng là "Đao ba" là nghĩa là sẹo do bị đao chém. Vì khắp người Hoa hòa thượng đầy sẹo Bàn Tử gọi ổng ta là Đao ba huynh, và để hưởng ứng phong trào thuần Việt mình sẽ để là anh Mặt Sẹo (tên Mặt Sẹo cũng dễ thương mà ~~~)


(5) Mã liệm: 358087


Chương 13: Khe nứt

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trường Bạch là một dãy núi lửa đã ngủ đông, căn cứ vào tài liệu lịch sử thì lần phun trào quy mô nhỏ gần đây nhất của nó hẳn đã kết thúc từ 1000 năm trước. Hiện giờ tuy núi lửa đã yên tĩnh trở lại nhưng những nguồn địa nhiệt quanh nó vẫn đặc biệt dồi dào, vô số khe nứt địa chất và miệng phun dung nham từ thời kỳ hoạt động vẫn còn duy trì nhiệt độ cực cao. Phía sau khối phong thạch Bàn long này không chừng còn đè lên một khe đất bốc hơi nóng, vì thế mới toát ra mùi lưu huỳnh.

Chuyện này đối với chúng tôi chắc chắn là một tin tốt lành. Trong hoàn cảnh này, có được nguồn nhiệt ổn định đương nhiên là tiết kiệm hơn hẳn so với đốt một đống lửa. Thế nhưng lại vướng tảng phong thạch Bàn long vĩ đại màu đen chèn chặt bên trên, liếc qua đủ biết phải nặng đến hơn mười tấn, chúng tôi lại không có bất kì thiết bị phá đá nào, muốn lật nó sang một bên quả là hơi khó.

Bàn Tử thuộc phái hành động, hăng hái vung tay kêu gọi chúng tôi cùng khuân tảng đá lên, có vài người cũng bước tới nhấc thử mấy cái. Nhưng cả đám ra sức khiêng tới nỗi đầu tóc nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ đến mang tai mà tảng đá vẫn không mảy may suy suyển.

Bàn Tử thở hổn hển, than vãn: "Không được rồi bố già ơi. Tôi đã bảo trang bị của chúng ta không dùng được rồi mà, bố xem giá lúc này có ít thuốc nổ thì tốt quá."

Hoa hòa thượng đáp, anh không biết thì đừng có nói lung tung, ông cụ nhà này qua cầu còn nhiều hơn anh đi đường đấy. Không mang thuốc nổ là đúng rồi, anh nói coi giờ chúng ta đang ở dưới đáy khe, trên đỉnh đầu tuyết phủ trắng xóa, anh cứ thử đào bừa cái lỗ, chôn xuống quả mìn rồi cho nổ, chờ đám tuyết đọng bên trên chấn động sụt xuống xem có bị chôn sống ngay không.

Bàn Tử cứng họng, đúng lúc đó tôi lại thoáng thấy mép dưới của phiến đá Bàn long còn kẹp rất nhiều khối đá to nhỏ không đều, nảy ra một ý, bèn bảo bọn họ: "Có lẽ không cần dùng thuốc nổ đâu, để tôi thử xem."

Nói rồi tôi lấy từ trong hành lý ra một chiếc búa đục đá, đến bên cạnh khối phong thạch Bàn long, cẩn thận kiểm tra mấy khối đá lớn bên dưới rồi nhắm chuẩn vào một tảng trong số đó mà khỏ một búa. Khối đá kia một mặt đã phải chịu sức nặng hơn mười tấn, nay lại phải nhận thêm nhát búa thốc từ bên sườn của tôi, tức khắc nứt ra một kẽ nhỏ. Tiếp đó là những tiếng đá nghiến vào nhau rào rạo liên hồi, tảng phong thạch Bàn long phía trên vì lực chống đột ngột biến đổi mà bắt đầu trượt xuống theo vách núi đá.

Chúng tôi gấp gáp lùi về phía sau, phiến phong thạch Bàn long trượt xuống vài tấc lại bắt đầu nghiêng ngả. Thế nhưng phiến đá kia thật sự quá nặng, chỉ trượt khỏi vị trí một chút đã ngừng lại. Nhưng như thế cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy phía sau tảng phong thạch lộ ra một khe nứt nằm trên vách núi.

Khe đá này rộng vừa một đầu người, cố ép mình cũng có thể chui qua. Nhìn mép động thì thấy đường đứt gãy của nham thạch vẫn còn nguyên trạng, không có dấu vết đục đẽo của con người, mùi lưu huỳnh từ trong đó phả ra từng đợt.

Bàn Tử vặn đèn pin sáng lên, thò tay chiếu vào xem thử rồi quay đầu lại nói: "Trong này ấm lắm, mỗi tội góc độ thì quá khó đỡ, chẳng chiếu đến cái gì cả. Với lại, tường đá bên trong hình như còn viết chữ."

"Viết cái gì vậy?" Tôi hỏi.

Bàn Tử nheo mắt nhìn cẩn thận một lát rồi đáp: "Đọc không nổi, mẹ kiếp chẳng biết nó viết cái của nợ gì."

Nói rồi hắn lại định khom lưng chui vào, có điều Bàn Tử quả thực quá mập, hang động này hiển nhiên không vừa với hắn, cố nhét người vào mấy lần vẫn không được. Rốt cuộc hắn phải cởi tấm áo khoác bên ngoài ra mới miễn cưỡng chui lọt.

Trần Bì A Tứ lại bảo Diệp Thành, Lang Phong và Phan Tử ở lại bên ngoài, có gì còn tiếp ứng, còn chúng tôi theo sau Bàn Tử tiến vào trong khe hở.

Đây là một kẽ đá nứt ra do vận động tạo núi, đi vào rồi mới phát hiện nó đột ngột dốc thẳng xuống dưới, bên trong tối om om, xem ra khe này rất sâu, chỉ e nó thông thẳng vào trong lòng núi.

Không gian ngoài miệng khe nứt hơi chật, hai người không thể sóng vai cùng vào, hơn nữa trong khe rất khó đi, dưới chân toàn là những khối đá lớn góc cạnh lởm chởm. Mùi lưu huỳnh trong hang phải nói là nồng nặc, nhiệt độ ít nhất cũng tầm 30 độ C, đến cả đá cũng nóng rẫy lên.

Chúng tôi dùng cả chân lẫn tay nhích lên vài bước, Bàn Tử lấy đèn pin chiếu sáng một bên, bảo: "Các anh xem, đây là chữ gì?"

Tôi quay đầu sang, thấy đám chữ không được khắc lên vách khe nứt mà chạm trên một khối đá nằm ngang lẫn trong đống đá lộn xộn dưới đáy. Đây toàn là những chữ lạ lùng, có phần giống tiếng Trung, lại hơi na ná chữ Hàn, chạm khắc không theo thứ tự gì cả.

Hoa hòa thượng sáp lại gần nhìn thử rồi khẳng định: "Đây là chữ của người Nữ Chân(*)."

(Nữ Chân chính là dân tộc của hoàng thất nhà Thanh, vốn họ thuộc một nhóm các bộ tộc du mục sống tại vùng Mãn Châu – nay là đông nam Nga và đông bắc Trung Quốc – và miền bắc Triều Tiên, cũng tức là sát với dãy Trường Bạch Sơn trong truyện. Trong quá khứ họ từng thành lập nhà Kim, xung đột với triều Tống cho đến khi bị liên minh Tống và bộ tộc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn diệt quốc. Sau này họ lại nổi lên xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc của nhà Minh và lập ra triều Thanh, cũng chính là vương triều cuối cùng của giai cấp phong kiến Trung Hoa.)

"Nó viết cái gì thế?" Bàn Tử hỏi.

Hoa hòa thượng đáp: "Chờ chút, tôi đâu phải siêu nhân, phải xem kỹ mới biết được. Để tôi chép lại đã."

Chúng tôi chờ một lát cho Hoa hòa thượng chép xong những chữ này vào sổ. Rồi Bàn Tử dẫn đầu, chúng tôi lại xếp thành hàng ngũ, tiếp tục đi sâu vào trong động.

Nói là đi, chứ thực ra dùng tay còn nhiều hơn chân. Toàn bộ khe nứt cơ hồ đều nghiêng 30 độ xuống dưới, lại không có bậc thang, gần như phải bò xuống. Bên trong khúc rộng khúc hẹp chỗ thấp chỗ cao, có nhiều nơi phải thụp người xuống mới luồn qua được.

Điểm duy nhất khiến người ta thoải mái là trong này ấm áp hơn rất nhiều, chúng tôi bò mãi cũng bắt đầu đổ mồ hôi, đành phải tháo bớt nút quần nút áo. Đúng lúc đó Bàn Tử lên tiếng: "Bố già ơi, phiến phong thạch chặn ngoài kẽ nứt kia hình như không phải ngẫu nhiên đúng không?"

Trần Bì A Tứ ậm ừ nói: "Phá núi xây lăng thường lấy vật liệu tại chỗ, bên ngoài nhiều đá vụn như thế, hẳn đây chính là công trường khai thác đá để xây lăng mộ. Khe nứt này dễ chừng bọn họ đã phát hiện ra trong khi lấy đá, không hiểu sao cuối cùng lại dùng phong thạch chặn lại."

Còn chưa xuống đến 100 mét, mùi lưu huỳnh đã ngày càng nồng, nham thạch càng lúc càng đen, cũng bắt đầu phản chiếu ánh ngọc lóng lánh bảy màu, đó là dấu vết để lại sau khi đá mica bị nhiệt độ cao nung chảy. Tôi kêu úi cha một tiếng, trong lòng thầm nghĩ đây chắc là miệng phun dung nham của núi lửa rồi. Trường Bạch là ngọn núi lửa ngủ đông, lỡ như nó đột ngột tỉnh giấc, nham thạch nóng chảy từ trong lòng núi phun ra thì chúng tôi chết là cái chắc.

Tôi đang nghĩ ngợi lung tung, bỗng hai người đi đầu đoàn ngừng lại, chiếu đèn pin về phía trước. Thì ra khe nứt đằng trước đột ngột thu hẹp lại, đá vụn ngổn ngang, chỉ chừa ra một khe hở bé tý có thể chui xuống dưới.

Tôi ngồi thụp xuống, chiếu đèn pin vào bên trong. Nơi đây do khe nứt sụp xuống hình thành, không gian bên trong rất nhỏ, kiểu này chắc phải nằm hẳn xuống mới trườn vào được.

Trần Bì A Tứ nhìn thấy miệng cái khe, biết ngay với thể lực của mình thì đừng hòng bò vào nổi. Bàn bạc một lát, tôi bảo Hoa hòa thượng ở lại chờ chúng tôi với lão, còn tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình thì tiếp tục chui vào xem bên trong còn có thứ gì.

Chúng tôi cởi áo ngoài, cố giảm hết cỡ kích thước cơ thể mình. Lần này chúng tôi để Muộn Du Bình đi đầu, ba người lần lượt trườn xuống, từng tý từng tý một luồn dần vào cái khe kia.

Tôi cho rằng chỗ bị sụp xuống chỉ là một đoạn ngắn, cứ bò về phía trước vài bước khắc có lối ra. Nếu đúng là như thế thì chúng tôi có thể quay về kịp thời, ai dè cái khe này dài khiếp, bò mãi bò mãi vẫn chưa hết đường, quả là vượt quá dự liệu.

Những tảng đá trong khe đều sắc nhọn khác thường, mới bò được vài bước quần áo trên người tôi đã bị móc rách vài chỗ. Nham thạch đè ép phổi tôi, cộng thêm nhiệt độ ngày càng tăng khiến tôi dần dần cảm thấy khó thở.

Bàn Tử đi sau cũng có cảm giác giống tôi, bèn níu chân tôi lại, nói: "Không xong, thành phần không khí ở đây hình như có vấn đề, chúng ta chưa thăm dò đã tiến vào thế này là quá liều lĩnh."

Tôi muốn ngoảnh lại nhìn nhưng không gian quá chật chội, thật sự không cách nào làm được. Nghĩ bụng nãy giờ đã trườn được một đoạn khá xa, quay lại thì cũng tiếc, hơn nữa tình hình hiện tại như vầy, chỉ e bò lại còn khốn khổ hơn bò đi, vì vậy tôi nói: "Tiến thêm vài bước nữa đi, nếu còn chưa đến đáy thì chúng ta lại lui ra ngoài."

Bàn Tử ậm ừ. Đúng lúc này, Muộn Du Bình ở đằng trước bất chợt kêu lên một tiếng: "Hửm?"

Tôi quay đầu lại nhìn về phía trước thì thấy đằng đó trống trơn, Muộn Du Bình mới nãy còn chặn trước mặt tôi giờ đã không thấy đâu nữa, chỉ để lại cái khe nứt tối om om, chẳng biết thông đến tận đâu.

Từ lúc nghe thấy tiếng Muộn Du Bình cho đến khi phát hiện ra hắn biến mất ngay trước mắt tôi, tuyệt đối không quá năm giây. Cho dù có là một con chuột thì trong hoàn cảnh này cũng không thể nào biến mất trước mặt tôi nhanh đến thế, huống chi là một con người.

Tôi lập tức cảm thấy có gì không ổn, vô thức lùi lại một bước, định nhìn lại cho cẩn thận. Bỗng vụt một cái, lại thấy Muộn Du Bình hiện ra lù lù ngay trước mặt mình.

Bàn Tử bò sát phía sau, thấy tôi lùi một bước thì hốt hoảng khựng lại, lên tiếng hỏi: "Có chuyện gì vậy?"

Nhất thời tôi cũng mù mờ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn trả lời lấy lệ: "Không... không có gì đâu."

Muộn Du Bình hình như cũng không biết chuyện kỳ dị vừa xảy ra với mình. Hắn dừng lại một lát, gọi chúng tôi một tiếng rồi bắt đầu tăng tốc trườn về phía trước.

Dù hắn thoắt ẩn thoắt hiện chỉ trong tích tắc nhưng tôi vẫn cảm nhận được hết sức rõ ràng. Tuy nhiên nhìn vào cảnh tượng trước mắt, bỗng dưng tôi lại không thể chắc chắn một trăm phần trăm. Trong lòng tôi cực kỳ hoang mang, lẽ nào là do không khí trong này khiến tôi sinh ảo giác?

Nhưng tình hình không cho phép tôi cân nhắc nhiều. Bàn Tử đằng sau kéo chân tôi thúc giục, tôi đành ôm cảm giác bực bội bò thêm một quãng. Lúc bò qua cái đoạn Muộn Du Bình vừa biến mất kia, tôi đặc biệt chú ý quan sát xung quanh nhưng không thấy bất kì chỗ lõm hay cái gì tương tự có thể khiến tôi sinh ra ảo giác, trong lòng mơ hồ dấy lên cảm giác bất an.

Qua khúc này lại đi thêm tầm mười phút nữa, Muộn Du Bình bất chợt thả lỏng, cả người rướn ra ngoài dò xét. Tôi thấy trước mặt trở nên rộng rãi, biết rằng đã đến lối ra.

Phần cuối của khe nứt là một đống lớn đá ngổn ngang. Sau khi leo ra, Muộn Du Bình bẻ vài khúc gậy huỳnh quang ném ra tứ phía, ánh sáng ấm áp màu vàng lan tỏa khắp không gian. Tôi quay đầu lại nhìn, nhận thấy đây hẳn là chỗ rộng rãi nhất của cả cái khe nứt trong lòng núi này, chiều rộng cỡ bốn năm chiếc xe bảy chỗ hiệu Kim Bôi, chiều dài đại khái bằng nửa sân bóng rổ, bên dưới lổn nhổn toàn đá vụn lớn có nhỏ có, đều là bị hoạt động địa chất xảy ra vào thời điểm hình thành cái khe này lắc cho vỡ xuống.

Bàn Tử điều chỉnh quầng sáng của đèn pin chiếu rộng ra, quan sát bốn phía rồi nói: "Quái lạ, chỗ này mà còn có bích họa. Xem ra chúng ta không phải những người đầu tiên tới đây rồi."

Chúng tôi bước tới, phát hiện trên vách khe đúng là có bức bích họa lớn nhiều màu sắc. Nhưng tình trạng bảo tồn của bức bích họa này cực kỳ kém, màu sắc nhạt phai, đường nét bên trên phải cố gắng lắm mới nhìn ra nó na ná hình vẽ Thiên nữ phi thiên.

Những người tiến vào đây đã lấy một phiến đá vĩ đại bít cửa, bên trong lại còn có bích họa. Đây rốt cuộc là nơi nào? Một lần nữa, tôi lại cảm thấy hoang mang.

Quanh quẩn vài vòng, chúng tôi phát hiện ra vài miệng suối nước nóng giữa lớp đá vụn, tuy cái nào cũng rất nông, nhưng bốc lên hơi nóng hôi hổi hấp dẫn không sao tả xiết. Tuy nhiên, chúng tôi lại không phát hiện ra dấu vết cho thấy có những người khác đã từng hoạt động ở đây.

Từ sâu bên trong khe nứt thỉnh thoảng phả ra những luồng gió nóng bỏng. Tôi qua đó chiếu đèn vào trong, khe này sâu không thấy đáy, chẳng biết nó còn thông đến tận đâu.

Sau khi trao đổi ý kiến, chúng tôi thống nhất không phải vào sâu thêm nữa, đây đã là chỗ tránh bão tuyết lý tưởng rồi. Bàn Tử kiểm tra không khí, thấy không có vấn đề gì quá lớn, bèn thắp ngọn đèn bão lên duy trì ánh sáng. Muộn Du Bình lại bò qua cái khe nhỏ hẹp đã đưa chúng tôi tới đây, ra báo cho những người ở bên ngoài.

Lát sau Hoa hòa thượng và Diệp Thành đã lần lượt chui vào, Thuận Tử cũng được Phan Tử kéo đến nơi. Tôi lập tức kiểm tra bệnh tình của Thuận Tử, nhận ra nhờ hơi ấm trong này mà sắc mặt hắn đã bắt đầu hồng hào hơn, nhưng tay chân vẫn lạnh ngắt, không biết còn có thể cố gắng chống đỡ hay không.

Suốt quãng đường lên đây đều do Thuận Tử dẫn chúng tôi đi, nếu hắn chết thì cũng chưa đến nỗi không đi nổi nữa, nhưng tóm lại sẽ rất khó khăn. Hơn nữa tôi cũng rất quý mến người này nên thật sự không muốn một người vô tội như thế lại phải bỏ mạng vì chúng tôi.

Hoa hòa thượng kiểm tra nhịp tim và mạch đập của hắn, sau đó lại bảo tôi tránh ra, dấp nước nóng đẫm chiếc khăn mặt rồi đặt trên tảng đá cho nguội bớt, sau đó dùng nó lau người cho Thuận Tử, đợi đến khi toàn thân hắn được chà xát đến đỏ lựng lên rồi mới tưới lên người hắn chút nước nóng. Thuận Tử bắt đầu ho khan dữ dội, mí mắt co giật.

Chúng tôi thở dài nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng nói: "Xong rồi, hắn không chết được đâu."

Bầu không khí dịu đi, Bàn Tử và Diệp Thành đều lấy thuốc lá ra hút. Lúc này Trần Bì A Tứ cũng được Phan Tử đỡ vào.

Trải qua lần biến cố liên tiếp này, chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức, cũng chẳng còn hơi đâu mà nói chuyện nữa, ai nấy đều tự tìm một chỗ thoải mái mà ngả lưng xuống.

Tuyết trên người vì nhiệt độ thay đổi mà tan thành nước, quần áo giày dép bắt đầu thấm hơi ẩm, chúng tôi phải lột quần áo ra phơi lên mấy tảng đá khô. Diệp Thành lấy đồ hộp nén nhỏ ra, ném vào suối nước nóng ngâm một lát rồi phân phát cho mọi người.

Tôi vừa ăn vừa cùng Hoa hòa thượng ngắm bức bích họa vừa phát hiện ban nãy. Chỗ này rõ ràng là do thiên nhiên tạo thành, hơn nữa không gian lại hẹp, tại sao phải vẽ bích họa làm gì? Việc Muộn Du Bình đột nhiên biến mất ngay trước mắt tôi vừa rồi, cùng với tảng đá vĩ đại chắn ngang cửa động đã cho tôi một cảm giác rất bất thường.

Người làm việc với đồ cổ luôn cảm thấy cực kì hứng thú với những vật truyền lại một lượng thông tin lớn như bích họa và phù điêu. Những người khác thấy chúng tôi chăm chú nhìn, cũng dần dần bước tới.

Nhưng trên tấm bích họa này lại không chứa nhiều thông tin cho lắm. Hình Thiên Nữ Phi Thiên được vẽ lên tường ở nhiều nơi trong cung đình hoa lệ hay in lên đồ thờ cúng chỉ để thể hiện những màn ca múa tưng bừng mừng cảnh thái bình thịnh vượng, chứ thực tế chẳng có ý nghĩa gì. Tấm bích họa tàn tạ này nhiều khả năng cũng chỉ là vật tương tự, có mặt tại đây lại toàn những người thường xuyên ra vào cổ mộ, nhìn nhiều phát nhàm, liếc qua đã chẳng có hứng xem xét gì nữa.

Trên đoạn đường tới đây tôi đã đổ mồ hôi đầm đìa, đầu ngón chân tê cóng, đau đến dại đi. Đúng lúc tôi đang định về chỗ, ngồi xoa bóp mấy đầu ngón chân thì lại nghe Bàn Tử chắt lưỡi một tiếng, chìa ngón cái ra, bắt đầu cậy bức bích họa.

Tôi bèn hỏi hắn làm sao thế, thứ này tuy không có giá trị nhưng dù gì cũng là di vật của người xưa, anh không thế phá hoại nó chứ.

Bàn Tử trả lời: "Cậu lảm nhảm cái gì đấy, móng tay tôi mà không có giá à? Đồ đạc bình thường tôi có thèm bóc bao giờ đâu. Cậu tự qua đây mà xem, bích họa này có hai tầng đấy!"

"Hai tầng á?" Tôi hửm một tiếng, nhíu mày, trong lòng tự hỏi thế nghĩa là sao?

Mọi người bắt đầu chụm lại, tới xem rốt cuộc hắn đang nói gì. Hắn chìa đầu ngón tay cho chúng tôi xem, chỉ thấy trên đó dính lại chất chu sa màu đỏ bị cạo ra. Nhìn lại vị trí trước mặt hắn, quả nhiên trong góc bức bích họa có một khoảng đường nét không hề liên quan đến xung quanh, thứ được vẽ cũng không giống. Chẳng qua chỗ này nằm hơi khuất, nếu không nhờ Bàn Tử tinh mắt, chúng tôi tuyệt đối không thể nhìn ra.

Điều này chứng tỏ đã có người vẽ chồng một tầng lên trên tấm bích họa gốc, che khuất hình vẽ ban đầu bằng hình vẽ này.

Tầng phía trên do phơi ngoài không khí, lâu dần tróc ra, để lộ bích họa đằng sau, chuyện này cũng thường xảy ra đối với tranh sơn dầu.

Bàn Tử tiếp tục lấy ngón tay lần lần trên bức bích họa, phát hiện ra tầng ngoài cùng này hình như cũng chưa được thi công hoàn thiện, cho nên Bàn Tử vừa cạo đại một cái đã có thể cào rụng lớp màu bên ngoài một cách đơn giản. Bằng không nếu như làm đủ thao tác, bích họa từ thời Đường trở đi đều phủ lên một lớp vật liệu trong suốt đặc thù; tầng này giống như lớp sơn bảo vệ hình vẽ, khiến cho nó không dễ bay màu, cũng không dễ tróc ra.

Đôi mày Trần Bì A Tứ nhíu lại thật chặt. Rất nhanh chóng, một mảng bích họa lớn cỡ cái chậu rửa mặt đã bị lột xuống, trên bức họa đằng sau xuất hiện nửa cỗ xe ngựa được vẽ với năm màu. Chủ nhân cỗ xe ngựa này là một người đàn ông phốp pháp, phục sức trên người ông ta tôi chưa thấy bao giờ.

Đây là loại bích họa tự sự, tôi bỗng nhiên cảm thấy hồi hộp.

Rõ ràng đã có người vẽ lên đây một tấm bích họa tự sự trước, nhưng vì nguyên nhân nào đó lại dùng một bức họa khác thay thế hết sức vội vàng, hơn nữa có lẽ do thời gian cấp bách nên không thể làm nốt thao tác cuối cùng để hoàn thành tấm bích họa bên ngoài này.

Trần Bì A Tứ ngắm nghía tấm bích họa này, lại nhìn quanh quất một vòng rồi nói với chúng tôi: "Thứ này... có liên quan tới thiên cung. Bóc toàn bộ mặt tường ra đi, để xem bức họa bên trong kể lại chuyện gì."

Tôi đã muốn ra tay từ khuya rồi, bèn từ một đầu khác chìa móng tay ra, cẩn thận làm việc, bóc đi lớp bích họa trên tường đá.

Bức họa bong ra từng mảng lớn, chỉ trong chốc lát, một cuộn tranh khí thế hào hùng, màu sắc tươi đẹp đã dần dần trải ra trước mắt chúng tôi...

_______________

Bạn Cơm Nắm: Thiên nữ phi thiên chỉ là cô tiên bay lên giời thôi ( ̄▿ ̄)

Thế này này


Chương 14: Hai lớp bích họa

Editor: Biển,  Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

 Bốn phía yên tĩnh đến rợn người, ngọn đèn bão được treo lên vách đá để tăng cường độ sáng, ánh đèn nhợt nhạt chiếu lên tầng nham thạch cho người ta cảm giác thần bí cổ xưa.

Màu sắc tấm bích họa vô cùng rực rỡ, chủ yếu dùng sắc đỏ tươi như máu, dưới ánh sáng chập chờn lại trở nên lấp lánh, dường như cả khối nham thạch đang ứa máu tươi. Bích họa ẩn giấu bên dưới một lớp phẩm màu khác lại được bảo tồn tốt đến nhường này, thật là không sao tưởng tượng nổi.

Nhưng nội dung tấm bích họa mới khiến chúng tôi thực sự kinh ngạc, những gì được vẽ trên đó rất khó diễn tả bằng lời. Tấm bích họa được chia làm hai phần, ghi lại hai sự kiện khác nhau nhưng khi ghép chung một chỗ trông vẫn rất hoàn chỉnh, đẹp đến lung linh huyền ảo.

Hoa hòa thượng thấy hai mắt tôi sáng rực lên thì lẩm bẩm: "Đây là cảnh tượng cuộc chiến giữa hoàng đế Vạn Nô của Đông Hạ và người Mông Cổ, cậu nhìn người này đi, xem ra y chính là Vạn Nô vương, đây rất có thể là trận chiến diệt nước  Đông Hạ trong truyền thuyết."

Hiểu biết của tôi về Đông Hạ vô cùng hạn hẹp, những người khác hiển nhiên cũng không hơn gì, ai nấy đều yên lặng nghe ông ta nói tiếp.

Ông ta đi đi lại lại vừa trầm trồ thán phục, vừa ngắm nghía hình vẽ trước mặt rồi chỉ tay vào một vị trí trên bức bích họa, nơi có rất nhiều binh lính vai mang khôi giáp và da tê tê, nói: "Đây là quân Vạn Nô vương", lại chỉ vào kỵ binh bên kia: "Còn đây là lính Mông Cổ, các cậu xem, nhân số hơn xa quân Đông Hạ đến mấy lần, rõ ràng là một cuộc chiến không hề cân sức."

Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, thấy tên bay tán loạn đá bắn tứ tung, Bàn Tử nhìn một hồi chẳng hiểu sao lại cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi: "Vì sao quân Đông Hạ người nào người nấy mặt mũi trông như phụ nữ thế này?"

Tôi cũng thấy lạ, chẳng lẽ người Đông Hạ lại để phụ nữ ra trận đánh nhau sao? Nếu thế thì không mất nước cũng uổng. Hoa hòa thượng đáp: "Không phải, đây là một trong những đặc trưng của bích họa Đông Hạ, những người cậu nhìn thấy đều thanh tú mỹ miều, tôi cũng từng tra trong điển cố ra vài hiện tượng kỳ quái, hình như những ai đã từng tiếp xúc với người Đông Hạ đều nói ở Đông Hạ không thấy người già, dân nước này đều ở độ tuổi rất trẻ. Dân Triều Tiên thì kể rằng người Đông Hạ đến lúc chết vẫn giữ được dung mạo trẻ trung." *Đây là lí do anh Bình không bị lão hóa đó hả...*

Bàn Tử cau mày, dường như không thể nghĩ ra tại sao lại có chuyện như thế, tôi cảm thấy điều này có thể liên quan đến tập tục của một vài dân tộc thiểu số, có những tộc người không cho phép người già gặp khách. Tôi không quan tâm lắm, lại cùng mọi người tiếp tục xem xét.

Hoa hòa thượng lại chỉ tới phần thứ hai của bích họa, nói: "Phần này mô tả lại diễn biến trận đánh. Các cậu xem, người Đông Hạ lấy một chọi ba, cuối cùng lần lượt bị người Mông Cổ bắn chết, trận chiến này rốt cuộc biến thành một trận thảm sát."

Trên bích họa dùng rất nhiều mảng đỏ để diễn tả sự thảm khốc của chiến tranh, mang đến cảm giác rất thật, dường như như tôi đang được tận mắt chứng kiến từng nhóm từng nhóm quân Đông Hạ ngã vào vũng máu, kỵ binh Mông Cổ giẫm đạp lên thi thể của họ, bắt đầu thiêu hủy nhà cửa, tàn sát đàn ông.

Phần thứ ba của bích họa bị che khuất sau một tảng đá lớn, chúng tôi không thể dời đi nhưng có thể đoán biết nội dung của nó là phần kế tiếp hai bức kia.

Lúc này tôi bỗng cảm thấy ngờ vực, bèn nói chen vào: "Không đúng, cái nước Đông Hạ này chẳng phải đã bị người Mông Cổ tiêu diệt từ đời tám hoánh rồi sao? Tôi thấy trong tài liệu có nói bọn họ tồn tại được hơn bảy mươi năm, lại chinh chiến liên miên, nếu bảo Vân Đỉnh Thiên Cung là do bọn họ xây nên thì với điều kiện thời đó, một quốc gia nhỏ làm sao có thể xây dựng một lăng mộ quy mô hoành tráng nhường này?"

Tôi vừa dứt lời đã có nhiều người tỏ vẻ đồng tình, Đông Hạ là nhà nước xuất hiện trong thời gian rất ngắn ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang khi Nữ Chân diệt quốc, theo trí nhớ của tôi thì hoàng đế khai quốc Vạn Nô vương thậm chí còn không kịp truyền ngôi cho đời sau đã bị người Mông Cổ vòng qua Triều Tiên tiêu diệt. Đó chính là thời kỳ Mông Cổ hùng mạnh nhất, gặp thần giết thần gặp phật giết phật, cảnh tượng được mô tả trên bích họa nếu đúng là trận quyết chiến kia, với tính cách của người Mông Cổ, họ hẳn phải bị tàn sát sạch sẽ mới đúng.

Mà thời đó sức sản xuất của các bộ tộc Nữ Chân rất yếu kém, không thể huy động quá nhiều nhân công, dù không bị diệt quốc đi chăng nữa thì căn bản cũng không thể xây dựng nên một lăng mộ hoành tráng nhường này.

Theo lời Trần Bì A Tứ thì trong Vân Đỉnh Thiên Cung thật sự chôn cất hoàng đế Đông Hạ, chuyện này nghĩ sao cũng thấy thật hoang đường, bởi lẽ bọn họ không có đủ thời gian cũng như thực lực.

Càng vô lý hơn, nếu dựa theo những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển mà suy đoán thì tòa lăng mộ trong truyền thuyết này hẳn là do Uông Tàng Hải xây dựng, như vậy thời gian thi công có lẽ vào cuối triều Nguyên, khi đó nước Đông Hạ đã bị tiêu diệt từ hàng trăm năm trước, đào đâu ra hoàng đế Đông Hạ để mà chôn cất chứ.

Chúng tôi đều đưa mắt về phía Trần Bì A Tứ, lão chính là người nói ra câu hoàng dế Đông Hạ được táng trong Vân Đỉnh Thiên Cung, nhưng bây giờ xem xét lại thì dường như giả thiết này hoàn toàn sụp đổ.

Trần Bì A Tứ biết chúng tôi đang nghĩ gì, mặt mũi lạnh tanh liếc qua bích họa, cười nhạt một tiếng rồi nhìn sang Hoa hòa thượng: "Nếu các người không tin, vậy thì hòa thượng, anh nói cho bọn họ biết đi."

Hoa hòa thượng dạ một tiếng rồi quay sang chúng tôi cười nói: "Tôi biết các cậu đang hoài nghi điều gì, và tôi dám chắc các cậu đều nghĩ sai cả rồi. Những tài liệu viết về Đông Hạ mà các cậu đã xem hầu hết đều được suy ra từ mấy cuốn sách cổ không còn nguyên vẹn. Trên thực tế tài liệu về nước Đông Hạ còn lưu lại thật sự quá ít ỏi, ở nước ngoài người ta thậm chí còn không thừa nhận đã từng có một quốc gia như vậy tồn tại, cho nên thông tin các cậu thấy bây giờ thực ra cũng rất khó đánh giá độ chính xác."

Bàn Tử nói: "Nếu đã thế thì ông dựa vào đâu mà khẳng định tài liệu của ông là đúng."

Hoa hòa thượng trả lời: "Bởi vì tài liệu của chúng tôi trực quan hơn." Ông ta móc một tấm lụa trắng từ trong túi áo lót, trải ra trước mắt chúng tôi. Tôi vừa nhìn thấy, ruột gan bỗng chốc rơi tuột xuống.

Không ngờ thứ đó chính là con Xà mi đồng ngư trong buổi bán đấu giá.

Tại sao nó lại nằm trong tay bọn họ, chẳng phải đã nói là không có người mua sao? Tôi nhíu mày, đột nhiên hiểu ra.

Đã không có người mua, mà cá lại nằm trong tay Trần Bì A Tứ, vậy lẽ nào Trần Bì A Tứ chính là người bán?

Toàn thân tôi run rẩy, cố gắng giữ thân thể ổn định, không để cho bản thân lộ ra vẻ mặt quá mức kinh ngạc. Thế nhưng lòng mề đã xoắn thành một cục, vô số câu hỏi bùng nổ trong đầu, nhất thời cũng không biết mình đang sợ hãi hay là  hưng phấn, chỉ thấy tay chân đột ngột lạnh ngắt như bị rút máu.

Hoa hòa thượng không hề để ý đến nét mặt của tôi, tiếp lời: "Loại cá đồng này là một biến thể của rồng, cụ nhà chúng tôi nhờ cơ duyên xảo hợp mới lấy được, tôi tin chắc người chế tác ra nó phải biết rõ nội tình nước Đông Hạ. Lạ nhất là người này sử dụng thủ pháp vô cùng khéo léo để lưu lại một đoạn thông tin tuyệt mật trên thân cá, các cậu xem đi."

Ông ta đưa con cá lại gần đèn bão, những mảnh vẩy cá mạ vàng phản chiếu ánh kim lấp lánh, in lên bức bích họa vô vàn điểm sáng li ti. Hoa hòa thượng dịch chuyển thân cá, những điểm sáng bắt đầu biến đổi, dần dần lại hóa thành những con chữ lốm đốm.

"Bí mật nằm ở đây, trên vẩy cá này tổng cộng ẩn giấu bốn mươi bảy chữ Nữ Chân."

Trong lòng tôi a lên một tiếng, thầm nhủ hóa ra còn có thứ kỹ xảo này. Tôi nắm chặt hai con Xà mi đồng ngư trong túi, lắp bắp hỏi ông ta: "Nó...nó viết cái gì vậy?"

"Vì tư liệu trên con cá không hoàn chỉnh nên tôi còn chưa giải mã được hết. Nhưng tôi có thể khẳng định, người làm ra con cá này muốn ghi lại vài chuyện mà không muốn người ta phát hiện ra, lưu giữ lịch sử chân thực của Đông Hạ." Hoa hòa thượng nói có phần đắc ý, "Thật ra trước khi nhìn thấy vật này, căn cứ vào rất nhiều dấu vết để lại, tôi đã suy đoán rằng nhà nước Đông Hạ chắc chắn từng tồn tại, có điều họ đã rút sâu vào núi lớn, vả lại không biết dựa vào điều gì mà một nhà nước nhỏ bé yếu ớt như thế vẫn đứng vững vàng giữa một bên là Mông Cổ hùng mạnh vô song, một bên là Triều Tiên như hổ đói rình mồi trong suốt mấy trăm năm. Tôi từng nghiên cứu ghi chép của Cao Ly (tên cũ của Triều Tiên), mãi cho đến trước khi nhà Minh thành lập, còn có người đào sâm bắt gặp những kẻ ăn mặc kỳ quái hoạt động ở chỗ này. Tôi nghĩ đó là một bộ phận dân cư còn sót lại của nước Đông Hạ."

Ông ta lại chỉ vào con cá, nói tiếp: "Những mẩu ghi chép vụn vặt trong này đã chứng minh cách nghĩ của tôi là đúng. Nước Đông Hạ sau khi quyết chiến với Mông Cổ đã lui đến biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên, vẫn náu mình tồn tại suốt mấy trăm năm, tổng cộng có mười bốn vị hoàng đế. Mông Cổ và Triều Tiên không dưới một lần muốn tiêu diệt đất nước bé nhỏ này, nhưng vì một lý do kỳ lạ mà tất cả đều thất bại."

"Lý do gì?" Phan Tử hỏi: "Hòa thượng, anh nói chuyện thẳng thắn chút được không?"

Hoa hòa thượng nhún vai: "Tôi không biết. Tư liệu trên con cá kia không đầy đủ, đảm bảo còn có vật khác ghi lại phần còn thiếu. Nhưng căn cứ vào những chữ trong tay, tôi dám nói nước Đông Hạ đứng vững được hẳn là vì đã có những chuyện vô cùng ly kỳ xảy ra, còn nội dung phía sau thế nào thì chịu. Chúng tôi vẫn luôn muốn tìm, nhưng tiếc thay ông cụ nhà chúng tôi đã lùng sục bao nhiêu năm vẫn không thấy những phần khác đâu cả." Ông ta ngừng một lát rồi lại nói: "Các cậu có biết câu cuối cùng trong đống chữ Nữ Chân này nói gì không?"

Tôi thầm nghĩ tụi này biết thế quái nào được, Diệp Thành đã tiếp lời: "Là gì?"

Hoa hòa thượng nhìn chúng tôi rồi bảo: "Trên này viết, Vạn Nô Vương của các triều đại đều không phải là người."

"Không phải người thì là cái quái gì?" Bàn Tử thốt lên.

Hoa hòa thượng cất con cá đi: "Trên này viết, bọn họ đều là một loại quái vật từ dưới lòng đất bò ra!"

Không phải chứ, tôi nghĩ thầm. Mọi người nhìn nhau, xem chừng trong lòng đều đã hơi rờn rợn. Diệp Thành lại hỏi: "Cũng không thể nói như thế được, hay ý họ muốn ví hoàng đế với rồng, chứ không phải người phàm?"

"Tôi vốn cũng nghĩ người này chỉ muốn dùng lối ví von chân long thiên tử vậy thôi, nhưng sau này nghiên cứu thêm mới phát hiện người này khả năng chỉ muốn ghi lại một vài bí mật, khách quan hơn so với ghi chép lịch sử của Đông Hạ, nên hẳn là sẽ không dùng ngôn ngữ cung kính vậy đâu. Hơn nữa, nếu sự thực đúng như lời anh nói thì hãy tưởng tượng mà xem, giả sử anh chúc thọ hoàng đế mà vừa mào đầu đã nhả một câu: bệ hạ, ngài thật không phải người, chỉ e câu thứ hai chưa nói ra anh đã bị lôi đi lăng trì rồi. Làm gì có ai viết kì cục như vậy." Ông ta cười khó hiểu: "Hơn nữa câu sau cùng viết cực kỳ rõ ràng, cực kỳ khiếm nhã, tôi vẫn canh cánh trong lòng. Nếu ta tìm được những phần khác thì hẳn là sẽ giải mã được rốt cuộc những lời này có ý nghĩa gì."

Bàn Tử và Muộn Du Bình đều biết kỳ thật hai con cá đồng còn lại hiện giờ đang ở trong tay tôi, nhưng vì thận trọng nên bọn họ đều không lên tiếng. Tôi bóp chặt cá đồng trong túi áo, đột nhiên cảm thấy chúng trở nên nặng trĩu.

Nhất thời tôi cũng không biết mình có nên lấy hai con cá này ra không. Thực ra hai con cá này đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không đọc được chữ Nữ Chân, có xem cũng chẳng hiểu cóc khô gì sất. Nhhưng nếu giao cho bọn họ thì tôi lại thấy không ổn chút nào.

Phan Tử nhìn chằm chằm vào tấm bích họa, lẩm bẩm với chính mình rằng người được cho là Vạn Nô vương trên bích họa kia trông cũng giống người chứ nào có vẻ gì là quái vật. Bàn Tử vỗ vỗ anh, nói với Hoa hòa thượng: "Anh Mặt Sẹo, tôi bảo này, anh giải mã cái quái gì, chúng ta là người thực dụng, đừng ra vẻ phần tử trí thức, đến lúc quan tài mở ra thì là người hay chó khắc rõ ràng ngay thôi."

Hoa hòa thượng cười cười lên tiếng: "Ý tôi là, biết người biết ta vẫn hơn."

"Có điều, thằng vẽ bích họa không dưng lại vẽ mấy cái này ở đây làm quái gì nhỉ?" Bàn Tử hỏi: "Để nhắc mình khỏi quên nợ nước thù nhà à?"

Hoa hòa thượng lắc đầu, hiển nhiên cũng không hiểu rõ lắm. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: "Có khi là muốn hoàn thành bích họa ở đây rồi dỡ cả khối đá xuống, còn không thì chắc là vẽ để giết thời gian thôi. Anh xem trong này ấm áp, có lẽ lúc đó thợ thuyền cũng vào đây nghỉ ngơi mà."

Chẳng ai thèm tin tôi. Hoa hòa thượng bắt đầu chụp lại mấy thứ này để lưu lại làm tư liệu.

Chúng tôi nghỉ ngơi đã đủ, dần dần hồi phục tinh thần, bắt đầu cắt lượt nghỉ ngơi. Trần Bì A Tứ lại cử người của lão thay phiên ra canh bên ngoài, chừng nào tuyết ngừng rơi thì bò vào báo cho chúng tôi, còn chúng tôi bắt đầu thay phiên nhau ngủ.

Khi tôi tỉnh giấc thì Thuận Tử cũng vừa tỉnh lại, không ngừng xin lỗi chúng tôi. Bàn Tử không thèm quan tâm đến hắn, tôi lấy đồ cho hắn ăn, lại bảo anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, tôi còn phải nhờ anh tiếp tục dẫn lên mà.

Trong này không có mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũng chẳng biết thời gian đã qua bao lâu, đại khái là chờ hai ba ngày thì tuyết rốt cuộc cũng ngừng rơi. Chúng tôi lục tục leo ra khỏi cái khe, bên ngoài đã trời quang mây tạnh, xung quanh là một thế giới bao la trắng xóa.

Sửa soạn lại trang bị mới phát hiện mấy ngày nay chúng tôi đã ăn quá nhiều,  đoán chừng nếu không có tiếp tế thì chưa đi đến đích đã cạn sạch lương thực. Hỏi Thuận Tử xem có cách nào không, hắn nói đã lên vùng núi phủ tuyết thì bó tay rồi, bằng không phải quay trở về, hoặc là phân phối đồ ăn ra, chịu khó nhịn bớt một chút.

Lúc ở trong khe nứt, Trần Bì A Tứ đã dạy chúng tôi rất nhiều mánh lới sử dụng trên núi tuyết, ví dụ như dùng băng vệ sinh làm lót giày có thể hút mồ hôi, giữ cho bàn chân khô ráo, toàn thân ấm áp. Chúng tôi làm theo cách của lão, quả thật không tồi, có điều chính mình cũng thấy  chướng, cứ nghĩ nếu vào cổ mộ rồi vứt lại mấy thứ này trong đó, vài năm sau có đội khảo cổ đào ra, nhìn thấy cái của nợ này nằm chình ình bên cạnh quan tài thì không biết sẽ có vẻ mặt gì. *Êm vái cả nón trí tưởng tượng phong cmn phú của bạn Tà =))*

Chúng tôi dùng dây thừng leo lên sườn dốc mà mình đã ngã xuống, thấy trên mặt đất chi chít những dấu chân ngựa mới tinh. Bàn Tử ngồi thụp xuống xem xét rồi nói: "Đám người A Ninh kia xem ra đã vượt qua chúng ta, giờ đang ở tít đằng trước rồi."

Chúng tôi không nói thêm lời nào, đeo kính chắn gió rồi gấp rút lên đường. Hai giờ sau, trên một sườn núi, chúng tôi thấy đội của A Ninh. Bọn họ hiển nhiên cũng chịu tổn thất rất lớn, ba mươi người giờ chỉ còn có hai mươi, số ngựa cũng bị rút xuống một nửa, nhìn toét mắt cũng không thấy tăm hơi chú Ba tôi đâu.

Chúng tôi bắt đầu lẳng lặng ẩn nấp, quan sát bọn họ. Tôi thấy A Ninh nâng ống nhòm chăm chú nhìn về một phía, muốn trông theo hướng cô ả đang nhìn nên cũng nheo mắt lại.

Chỉ thấy ngoài xa, không biết là trong màn tuyết hay mây mù, đứng sừng sững một ngọn núi tuyết lớn, hợp thành một thể với những mạch núi khác, lại cao chót vót đên bất thường. Đó chính là ngọn núi tuyết tôi từng thấy trong ngôi mộ dưới đáy biến sâu, hình dáng của nó dường như không khác mấy so với trong hình vẽ.

"Đúng chỗ này rồi." Tôi thầm nhủ trong lòng, chỉ vào ngọn núi kia, ngoảnh đầu lại hỏi Thuận Tử: "Kia là núi gì? Làm sao qua đó bây giờ?"

Thuận Tử đưa tay lên che nắng, vừa nhìn đã biến sắc: "Thì ra các anh muốn đến đấy à?! Chỗ kia không đi được đâu!"




Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz