ZingTruyen.Xyz

Cuu Chau Phieu Mieu Luc Edit

Quyển I: Man hoang

Chương 2: Đông lục mật sứ

3.

Ánh chiều tà đỏ như máu, treo ở đằng Tây của chân trời, trước những căn lều trong thành Bắc Đô, từng cột khói bếp bốc lên, bay thẳng đến bầu trời xa xôi mới tản đi.

A Ma Sắc vẩy vẩy máu trên tay, nắm tay áo lau mồ hôi trên mặt, anh theo các cô hầu trong lều phu nhân Anh thị lột da một con sóc đất [1] cho bữa trưa, da con vật được xoa vôi, đem cỏ từng được treo ngoài gió đến khô nhét vào từng con, từng con đến khi nó to bằng con gấu mập, đặt thịt trắng hồng được cắt thành những miếng vuông vức, ướp ngon lành trong chậu đồng, tối nay sẽ có một bữa thịt no nê đây.

[1] Nguyên văn là con marmota hay còn gọi là macmot, một loại sóc đất sống ở thảo nguyên

Dù sóc đất béo tốt nhất vào mùa thu còn giờ đang là mùa hè, nhưng đây là loại thịt mỡ màng nhất trên thảo nguyên, thịt hươu hay thịt dê đều không sánh bằng, đem đi nướng sẽ có một loại mùi hương tinh tế bốc lên, cắn một phát miệng ngập đầy mỡ. Đội đi săn của Đại Vương tử vây quanh hang núi có đầy sóc đất, thu được hơn 100 con, phái người hầu tên Ban Trát Liệt đưa nhanh 50 con cho phu nhân Anh thị. Chồng phu nhân, tướng quân Mộc Lê là nhân vật lớn trong lều Đại Vương tử, chuyện này ai nấy đều biết rõ.

Ông lão với phu nhân Anh thị coi chừng Thế tử đang bất tỉnh, A Ma Sắc chả có việc gì làm, liền đi giúp mấy cô hầu làm thịt sóc đất. Ông tổ anh là thợ săn, đến nay cha anh vẫn thường xuyên đeo cung, mang roi ra ngoài săn thú, lúc gặp may thì săn được con sơn dương to khoẻ và một con sóc đất béo tốt dài hơn một thước, cha vui vẻ hát lên, dắt A Ma Sắc đi lột da cắt thịt. Đó là khoảnh khắc làm A Ma Sắc vui vẻ nhất, nghe mùi thịt nướng trong đống lửa, cả người ấm lên.

Gia đình A Ma Sắc không phải đại quý tộc, đại quý tộc sẽ không cho con đi học chiêm tinh. Đại Hợp Tát vốn dĩ là nhân vật cao quý, không ai dám ngửa đầu nhìn thẳng, nhưng chẳng được bao nhiêu đứa trẻ đi học chiêm tinh có cơ hội kế thừa thân phận Đại Hợp Tát, mà người nắm giữ ý chỉ Thiên Thần Bàn Thát cũng không phải thần, không biết bao nhiêu đời Đại Hợp Tát đã bị thiêu sống trong chiến loạn. Chọn sai chủ, hợp tát chính là phù thuỷ. Cha đưa A Ma Sắc đến lều Đại Hợp Tát học chiêm tinh, khi rời đi đã dùng sức rờ đầu con trai, đến giờ anh còn luôn nghĩ đến gương mặt trầm mặc của cha, đã mơ hồ hiểu được, nhưng không nói ra được.

"Cậu Hợp Tát đúng là cao thủ lột da sóc đất nha." Bà hầu lại đây, đưa cho anh tấm vải bông.

A Ma Sắc lấy khăn lau tay, nhếch miệng cười cười. Anh thường xuyên đến lều phu nhân Anh thị, quen thân với các cô hầu, họ biết quý tộc trẻ tuổi không làm cao nên ai cũng thích nói chuyện với anh.

Các cô hầu đương nhiên không dám gọi anh là Nhãn Kính Long, thế thì đổi thành Cậu Hợp Tát. Tuy rằng Đại Hợp Tát từ đầu đến cuối không nói ai sẽ kế thừa địa vị của lão, nhưng chuyện lão thích dẫn A Ma Sắc đi theo mình thì mọi người đều biết. Có điều A Ma Sắc biết mình học tính toán không tốt, chỉ được cái cần cù, có lúc anh không theo kịp bài giảng của ông lão, lúc đó lão liền ôm bình rượu than ngắn thở dài, nói hồi lão còn bé, nếu cũng đần như vậy đã sớm bị hợp tát đời trước đánh chết.

"Thịt làm thế nào vậy?" A Ma Sắc đưa vải bông lại cho bà hầu.

"Giữ một nửa làm thịt khô, phần còn lại thì một nửa đem nướng, một nửa làm thủ trảo [2]

[2] Tiếng Hán là thủ trảo nhục: đây là món ăn thường thấy của người Kazakhstan, đem thịt đi rút xương rồi đập thành từng miếng, nấu trong nước sạch, sau đó rắc hành tây, muối rồi bưng ra phục vụ.

A Ma Sắc vỗ tay, nở nụ cười, phu nhân Anh Thị nổi danh với món thịt thủ trảo, ông lão và anh đều thích ăn, ông lão thích đưa anh đến thăm lều phu nhân Anh thị, hơn nửa phần là vì muốn ăn chực thịt thủ trảo. Chiều tà trải xuống dưới, mùa hạ chảy xuôi trên thảo nguyên, phủ một tầng đỏ sẫm đầy ủ dột, các cô hầu tụm năm tụm ba với nhau, có nhóm khẽ hát bài gì đó mà A Ma Sắc không biết rõ, có nhóm đi phơi thịt sóc đất, có nhóm đi đập thịt, có nhóm lấy ống đồng thổi lửa để sao phân dê. Trong lòng có phần lười nhác, có phần vui vẻ, A Ma Sắc chậm rãi quay người, xoay cổ một vòng.

Tim anh chợt trầm xuống, ngờ nghệch nhìn về phía đông. Thời điểm về chiều, núi Đồng Vân vắt ngang toàn bộ mặt đông, nó như một tấm bình phong thiên nhiên tách người Man và khu rừng cổ rậm rạp ở Ninh Châu, nơi có toà thành người tộc Vũ Nhân sinh sống, dãy núi lớn cùng trời cao phân chia ranh giới bởi một tầng sáng màu vàng nhạt, sáng đến mức chói mắt. Nhưng ánh chiều tà không ép được ánh sáng phát ra từ những ngôi sao kia, bảy ngôi sao sáng nhạt từ núi Đồng Vân bay lên, chúng mang ánh lạnh lẽo âm u, như vừa mài được kiếm sắc.

Chòm sao Bắc Thần thực sự bay lên từ núi Đồng Vân, giống như những gì A Ma Sắc đã tính toán.

"Phá Quân, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Văn Khúc, Lộc Tồn, Cự Môn, Tham Lang [3]..." A Ma Sắc đếm từng ngôi sao trong chòm Bắc Thần.

[3] Đây là bảy ngôi sao trong chòm sao Bắc Đẩu.

Đây là lá số hiếm thấy, vào mùa này, Bắc Thần thường chìm nghỉm dưới núi Đồng Vân, bảy ngôi sao kia tuy không phải một trong mười hai chủ tinh trên vòm trời nhưng bọn nó ở trên tinh đồ bao năm qua, đã từng chiếu sáng toàn bộ bầu trời hằng đêm, từ phương đông thong thả xuyên về phương tây, mỗi lần vận chuyển có thể kéo dài đến mấy chục năm. Mà nương theo Bắc Thần, thì có quá nửa bay lên Lang Yên.

Bắc Thần, là chòm sao của chiến tranh.

"Cậu Hợp Tát này." Bà hầu đứng ở một bên, cẩn thận hỏi.

A Ma Sắc hồi phục tinh thần lại: "Ừm."

Bà hầu xem xét chung quanh, dáng vẻ khá quỷ bí, có điều A Ma Sắc chú ý tới những cô hầu đứng chung quanh đang làm việc bỗng nhiên hơi khựng lại, hướng về bên này quay đầu sang.

"Cậu Hợp Tát biết chuyện của Thế tử sao?" Bà hầu nhỏ giọng.

"Chuyện của Thế tử?"

Bà hầu hơi do dự, môi mấp máy nửa ngày: "Già nghe người ta nói lung tung, bảo Thế tử là người mang điềm gở."

"Mang điềm gở?"

"Cậu Hợp Tát, bọn tôi không hiểu ý chỉ của Thiên thần, chỉ có cậu hiểu, chẳng lẽ có người mang tinh mệnh này sao?"

A Ma Sắc trầm ngâm một chút: "Tinh mệnh là sao ứng trên mặt người, là thứ phức tạp nhất, ta chưa học sâu đến vậy. Có điều Đại Hợp Tát nói là nếu muốn tính toán mệnh người, cần phải tính toán quỹ tính của mấy chục, mấy trăm ngôi sao, tính đi tính lại cũng chưa chắc chính xác. Chỉ căn cứ vào một ngôi sao đã suy đoán số mệnh người ta... Ta nghĩ không đúng đâu."

"Nhưng bọn họ nói..."

Bà hầu bỗng nhiên biến sắc, đem khăn mặt vải bố nhét vào hông, cúi đầu bưng cái đĩa với cái chậu đồng đựng thịt đi cọ rửa. A Ma Sắc giương mắt nhìn, thấy Đại Hợp Tát đảo hai tay trong tay áo, đi cùng phu nhân Anh thị từ trong lều ra. Lều vải kia là của Thế tử, A Ma Sắc nghe nói Thế tử sẽ không ở cùng lều với Trắc Yên thị, mà ở chung với mỗ ma.

"Đại Hợp Tát ăn chút gì trước không?" Vẻ mặt phu nhân Anh thị có chút u buồn. "Thế tử sẽ tỉnh lại."

"Ừm." Ông lão ôm chặt hai tay, lọm khọm gật gù.

Lão toàn bày ra dáng dấp này, chả khác mấy ông già chăn dê là bao, đừng có nói đến thể diện. Có điều A Ma Sắc thấy lão có tâm sự, ánh mắt cúi thấp xuống, mất tập trung.

"A Ma Sắc, ăn thịt thủ trảo của phu nhân này." Ông lão lại đây vỗ vỗ vai A Ma Sắc.

A Ma Sắc đáp một tiếng, xoay người trong nháy mắt, nhìn thấy mấy cô hầu đang bận rộn không hẹn mà cùng quay đầu nhìn bóng lưng ba người bọn họ. Anh hơi sửng sốt, cảm thấy những ánh mắt kia thực xa lạ, không giống mấy cô gái giản dị thiện lương mà anh đã quen. Ông lão nhận ra anh thất thần, cũng quay đầu lại xem, các cô hầu lại cùng nhau cúi đầu bận việc, như là chẳng phát sinh ra chuyện gì cả.

Lòng A Ma Sắc bỗng nhiên nặng trình trịch.

Mùi thịt thơm phức phảng phất từ chậu đồng nhỏ, đứng từ xa đã nghe thấy mùi cay cay.

A Ma Sắc xoa xoa bàn tay, cái bụng kêu một tiếng ùng ục, ông lão ký đầu anh một cái không nặng không nhẹ: "Thằng quỷ đói, thấy đồ ăn là vậy, sau này làm Đại Hợp Tát kiểu gì?"

A Ma Sắc đã không còn sức lo mấy chuyện kia. Phu nhân Anh thị làm thịt thủ trảo ăn cùng cơm nấu từ kê đen, những miếng thịt sóc đất trắng hồng được ướp với muối và tiêu, còn rắc một lớp rau dại có mùi thơm ở trên. Một lớp mỡ sóc đất béo ngậy đặt trên cơm kê đen, một mớ thịt khô thơm nức, không nghe tí mùi tanh nào. Anh cầm một miếng bự chảng nhét vào miệng, suýt nữa cắn đứt ngón tay mình.

Ông lão nhìn anh mà cười méo miệng, nhưng không ăn thịt, không biết từ lúc nào, lão đã rót đầy bình rượu đồng trắng kia, chỉ nhìn đống lửa trong chậu đồng sưởi tay đến xuất thần. Tướng quân Mộc Lê không về trướng ăn cơm, chỉ có phu nhân Anh thị ngồi bên cạnh khâu da cừu non, tiếp chuyện cùng lão.

A Ma Sắc ăn vài miếng, liếm mỡ trên tay, nhìn phu nhân Anh thị rồi nhìn ông lão.

"Mộc Lê không muốn để Thế tử ở đây." Phu nhân Anh thị bôi dầu lên đầu kim, cúi đầu, tiếp tục may.

"Bởi cái chuyện quỷ thần kia?" Sắc mặt ông lão âm âm, hỏi như vậy.

"Ừm."

Ầm một tiếng, ông lão nặng nề cầm bình rượu nện trên chiếc bàn nhỏ. "Mộc Lê là cái thá gì? Năm đó chẳng phải cũng chỉ là tên đầy tớ nhãi nhép sao? Ngàn người giẫm, vạn người đạp, cả đời chăn dê không thấy được ngày ngóc đầu lên! Chả sờ được tới sợi lông ngựa, đánh được trận nào chưa? Bây giờ đã là quý tộc, được cho lãnh binh, đã biết làm cao rồi đấy!"

Mộc Lê là tên Man của tướng quân Liễu Hợi, năm đó gã là nô lệ, đi chăn dê cho nhà họ Sào – một đại quý tộc. Đại Quân Lữ Tung cưới con gái nhà họ Sào, đề bạt Mộc Lê từ trong đám nô lệ, ban cho họ Đông Lục, đặt tên Liễu Hợi, hiện tại là thống lĩnh toàn bộ sáu, bảy nghìn kỵ binh ở trướng Hổ Dực. A Ma Sắc biết ông lão quen thân với Mộc Lê, nhưng chưa bao giờ nghe lão đem chuyện cũ ra chửi sa sả như vầy.

Phu nhân Anh thị trầm thấp thở dài, nhưng vẫn cặm cụi may, không có ngẩng đầu lên. "Thế tử là do tôi đỡ đẻ, tôi nào nỡ chứ. Đại Quân muốn tôi làm mỗ mụ cho Thế tử, Mộc Lê thật sự không dám nói gì. Nhưng đến ông ấy cũng nghĩ như vậy, hơn nữa phía dưới nghị luận sôi nổi, cái gì cũng không hề tốt cho Thế tử."

"Thế tử quái gì? Nó vẫn còn là con nít! Mộc Lê có suy nghĩ này, có phải là ý của mấy tên trong lều cậu cả [4] không?"

[4] Mình để Đại Hợp Tát gọi Đại Vương tử là "cậu cả"

"Đại Vương tử thực sự không để ý cái này. Chẳng ai hy vọng Thế tử có thể kế thừa vị trí Đại Quân, Đại Vương tử muốn tranh, thì cũng chỉ tranh với Tam Vương tử, Mộc Lê còn chưa đến mức vì Đại Vương tử mà như vậy."

"Đại Vương tử! Tam Vương tử!" Lỗ mũi ông lão tàn nhẫn hứ một tiếng, nghiêng đầu sang chỗ khác, không nói chuyện nữa.

Mành lều vải đột nhiên bị người đẩy ra, người hầu đi vào quỳ xuống: "Đại Hợp Tát, phu nhân, Thế tử tỉnh lại rồi!"

Ông lão đột nhiên nhảy lên, như là ở dưới mông bị hun lửa. Phu nhân Anh thị cũng bước nhanh theo ra ngoài, A Ma Sắc quyến luyến chụp lấy một miếng thịt sóc đất bỏ vào miệng, đuổi theo bước tiến hai người.

Trong lều Thế tử thắp một ngọn đèn, dưới đèn, phía trước cửa sổ có một đại phu người Đông Lục mặc áo bào rộng đang ngồi, cầm cổ tay Thế tử bắt mạch. Nhìn thấy ba người đi vào, vội vàng đưa tay ngăn cản. Đại Hợp Tát và phu nhân Anh thị cũng không dám lên tiếng, bình tĩnh đứng ngoài lều, rón rén nhìn đại phu kia xem mạch xong, mang tấm lông cừu đắp cho Thế tử, ông bưng đèn lên, ra hiệu ba người cùng mình đi ra ngoài. Ông lão rõ ràng muốn nhìn một chút, nhưng bị đại phu kia dùng ánh mắt ngăn lại. A Ma Sắc biết thân phận đại phu kia, là một danh y hiếm có ở Đông Lục, tên là Lục Tử Du, ông vốn đi du lịch sang đây để hái thảo dược, lại bị Đại Quân dùng vàng bạc cùng da lông dâng lên, thế là vẫn ở lại đây.

A Ma Sắc liếc mắt nhìn đằng xa, Thế tử lẳng lặng nằm ở đó, con mắt phát ra ánh sáng trong trẻo, nhìn lên trần lều vải. Khi bọn họ đi vào, hắn nghiêng đầu qua một bên, nhưng lại trầm mặc.

Anh muốn đi khép mành lều vải lại, trong nháy mắt, bỗng nhiên nghe thấy một âm thanh trầm thấp: "Hợp Tát..."

Ông lão kích động lên, đoạt lấy ngọn đèn trong tay đại phu, chạy vội qua đó, hai mắt trừng trừng nhìn Thế tử, đến A Ma Sắc cũng sợ hết hồn.

"Hợp Tát... Tô Mã..."

"Tô Mã không sao, Tô Mã không có sao hết." Ông lão cầm tay của hắn. "Ngày mai con sẽ được gặp con bé."

Đứa trẻ gật gật đầu, vô lực thu hai mắt về, lẳng lặng không thấy có tiếng hít thở đều đều nữa.

"A Tô Lặc! A Tô Lặc!" Ông lão ngẩn ra, hơi mất khống chế mà hét lên.

Lục Tử Du tới xem thử, dùng sức lôi vạt áo ông lão, kéo lão ra ngoài. Đại phu này cũng có máu mặt lắm, lúc ông xem mạch, quý tộc với Đại quân cũng phải đứng ngoài lều chờ, ai cũng không ở ngoại lệ.

"Chỉ là ngủ thiếp đi thôi!" Lục Tử Du nhỏ giọng. "Vừa nãy là do tâm thần không yên, mới tỉnh lại một hồi rồi thôi."

A Ma Sắc đứng bên ngoài lều, ánh trăng đi xuyên vào, anh lại quay đầu nhìn gương mặt thanh tú của đứa trẻ kia, nó đang nằm mơ, nghĩ đến cô bé câm ê ê a a kia, chỉ vì ghi khắc cô bé kia trong lòng nên mới dùng hết sức để tỉnh lại trong tình trạng suy yếu này.

Phu nhân Anh thị thả mành vải xuống, ngăn tầm mắt của anh.

"Bọn mày ở đây làm gì?" Tiếng ông lão gọi hồn A Ma Sắc trở về.

Anh đảo mắt một cái, thấy mấy cô hầu kề mặt sát lều vải nghe trộm. Các cô cứ như đàn hươu bị doạ, tản ra xa mà trốn vào trong bóng tối, nhờ ánh lửa, A Ma Sắc nhìn thấy bà hầu hồi chạng vạng, nhìn thấy nét mặt già nua mang theo vẻ thần bí.

"Lục tiên sinh, Thế tử thế nào rồi?" Phu nhân Anh thị hỏi.

"Không phải chuyện lớn gì, do đi đường quá mệt nhọc. Hơn nữa căn cứ theo thầy thuốc trong quân Cửu Vương nói, Thế tử được cứu ra từ trong loạn quân, có vẻ đã kinh sợ nhiều, mấy ngày nay ăn uống rất ít, ngủ càng ít, về đêm lại thường vô cớ thức giấc. Với thân thể đó, đương nhiên không thể chịu đựng được. Giờ bệnh một trận lại có thể sắp xếp lại, trái lại là chuyện tốt với ngài ấy."

"Vậy bệnh cũ của Thế tử..."

"Bệnh khuyết tim, thầy của ta cũng không nắm bắt được, ta cũng không thể ra sức. Trong sách cổ nói trên đời có thuật bù tim, có thể mở lồng ngực tu bổ trái tim bị khuyết, tám năm trước thầy của ta xem bệnh cho Thế tử rồi trở về Đông Lục, vẫn không ngừng nghiên cứu kiến thức về tâm tạng và huyết thống, khi sắp chết vẫn không quên, nói e là không thể khôi phục lại thuật bù tim nữa rồi." Lục Tử Du thở dài một hơi. "Sức người có hạn, tư chất ta không bằng thầy, nhiều lời cũng vô ích."

Ông hơi cong lưng hành lễ, cũng không nói lời từ biệt, cứ thế mà nhấc túi thuốc đi tới, trong thần sắc hờ hững có đôi chút tiếc nuối.

Ông lão cùng phu nhân Anh thị nhìn bóng lưng của ông, trầm mặc một hồi.

"Tối hôm nay lão muốn mượn lều vải chỗ phu nhân ở tạm, để xem sáng mai Thế tử có đỡ hơn không." Ông lão nói.

"Hợp Tát muốn ở lại, ta kêu bọn hầu đi quét tước một gian lều lớn cho ngài."

"Không cần phiền thế, cho lão một vò rượu mạnh thật ngon là được." Ông lão sờ sờ cái bụng. "Thêm cả cơm thịt trảo thủ nữa, lão cũng đói bụng."

Trời tối, người yên, phu nhân Anh thị cũng cáo từ, về lều mình ngủ, trong lều chỉ còn A Ma Sắc cùng Đại Hợp Tát.

Ông lão cuộn chân ngồi dưới đất, ăn một miếng thịt trảo thủ thì miệng uống một ngụm rượu, cũng không biết lão duy trì bộ dạng ăn uống như thế trong bao lâu, miệng rầm rì xướng mấy giai điệu dân chăn nuôi trên thảo nguyên thường hát, mơ hồ như đã hơi say rồi. A Ma Sắc không ngủ được, chỉ tựa vào cửa lều suy nghĩ, nghĩ đôi mắt trong và sáng của Thế tử, lại nghĩ về cô bé câm, nghĩ về chòm Bắc Thần bay lên, lại nghĩ đến lúc Đại Quân nhận chiếc tráp sơn son kia từ tay Cửu Vương. Nghĩ đi nghĩ lại, anh vạch phép toán [5] trên mặt đất, bắt đầu tính toán quỹ tích của Bắc Thần, nhưng càng tính càng loạn, như là thiếu hụt cái gì đó, phép tính không thể tập hợp hoàn chỉnh.

[5] toán trù: thuật toán của người Trung Hoa ngày xưa

Anh thất vọng, đạp loạn phép tính, xốc mành lều vải lên, muốn ra ngoài hóng mát một lát. Bỗng nhiên, trong gió truyền đến tiếng người trầm thấp, nghe mông lung tựa hồ là hai chữ "Thế tử", cũng tựa hồ như là hai chữ "Cốc Huyền". Tim anh "hồi hộp" một tiếng, đối với người chiêm tinh, "Cốc Huyền" là hai chữ cấm kỵ. Anh lén lút nhìn sang, là những cô hầu của phu nhân Anh thị, dường như đang mang cỏ cho ngựa ăn lần cuối trong ngày, ánh mắt họ hướng về lều của Thế tử, ánh đèn kéo bóng các cô dài ra lại phập phù, như là quỷ mị xuất hành trong đêm.

Trên lưng chợt xẹt qua một tia khí lạnh, anh định thả mành lều vải xuống, ông lão sắp ngủ thiếp đi đột nhiên bật dậy. Mới vừa rồi ông lão còn ngã trái ngã phải, hiện tại hung hãn như con báo muốn ăn thịt người, ở trong lều quay một vòng, chộp lấy cái roi ngựa thô nhất, đá văng mành, nhanh chân đi ra ngoài. A Ma Sắc muốn kéo lão, lại bị lão kéo trở lại, ngã nhào một cái.

"Hợp Tát, dừng lại!" A Ma Sắc đuổi theo.

Anh sửng sốt một chút, nhìn ông lão cầm roi, đứng bên con ngựa trắng của mình, bộ dạng như đang xung phong ra trận, một thân trường bào vải gai, phanh mở lồng ngực, đèn chiếu trên người lão, phủ lên một tầng ánh hồng. Lão lắc lư hai lần, phun mạnh một hơi đầy mùi rượu, đạp lên bàn đạp sắt [6] trên yên ngựa, ra sức quất roi.

[6] Loại bàn đạp dùng để leo lên lưng ngựa

Tiếng kim loại va nhau kêu chói tai trong bóng đêm mờ mịt, phảng phất như muốn bổ vỡ xương đầu người. Đàn cừu đã ngủ bị kinh động, tiếng ngựa hí truyền đến từ phía sau, các cô hầu càng bị doạ cho kinh hãi, nơm nớp lo sợ mà quỳ lạy, không dám tiến về trước, kinh hoảng lùi ra sau.

Ở trong lều có người ra trước, ông lão quăng roi đi, quay đầu trở về lều. A Ma Sắc chui vào theo, chỉ nhìn thấy ông lão ngồi trên giường, chậm rãi đánh hoả liêm [7], châm lửa ở bầu điếu [8] làm bằng ngọc màu lục, rít một hơi dài. Khói thuốc lượn lờ bay lên, vây quanh lão. A Ma Sắc không dám động đậy. Ông lão rất hiếm khi nghiêm túc như vậy, lão cúi đầu nhìn bầu điếu loé lên tia lửa hồng, trầm mặc hồi lâu.

[7] Hoả liêm: dụng cụ đánh lửa

[8] Yên oa: Ống điếu dùng để hút thuốc

"Lại đây!" Ông lão vỗ vỗ giường bên người, để A Ma Sắc ngồi xuống cạnh mình.

Lão hút thuốc, lại trầm mặc rất lâu.

"A Ma Sắc, mi là học trò của thầy, tương lai Man tộc có thể sẽ gắn bó mật thiết với mi, vậy thì có một số việc, thầy phải nói cho mi nghe." Lão gãi gãi cái đầu trọc của mình. "Nói thế nào đây ta."

"Nói từ khúc đầu đi... Lấy từ lịch sử tộc người Man chúng ta mà nói tới." Ông lão đứng dậy, ném mấy thanh củi khô về đống lửa trại, lửa thăm thẳm bốc lên, ánh lửa chiếu lên khuôn mặt thon gầy của lão. "Chắc mi đã nghe người ta gảy đàn bờm ngựa ca xướng mấy chuyện xưa, về Tốn Vương, về Khâm Đạt Hàn Vương, thì lập tức cho rằng đó là lịch sử người Man chúng ta. Nhưng mà mấy nghìn năm qua, người Man có bao nhiêu anh hùng như Tốn Vương với Khâm Đạt Hàn Vương đây? Lịch sử chân chính, nằm ở dưới từng ngọn cỏ của thảo nguyên Hãn Châu này.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz