ZingTruyen.Xyz

Chuyen No Xo Chuyen Kia

Cả Ngố họ Trịnh

Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia

Tác giả xuất bản để

kính biếu thân tặng

Montréal, Québec, Canada, Hè 2009

Cả Ngố họ Trịnh

Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia

Trình bày : Lênin

Tranh bìa: Hoạ sĩ Hoài Hương

In tại Montréal, hè 2008-CCV và hè 2009-CXXV

                                             

ISBN 978-2-9811313-0-0

Dépôt légal – Bibliothèque et Archives nationales du Québec, 2009

Dépôt légal – Bibliothèque et Archives Canada, 2009

                                                     Thương tặng 3 thằng Khờ Bê Đê

Mục lục

Đôi lời loanh quanh

 Phần Đầu: Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia          

1. Thăng Long Có Gì Lạ Không Em?:

2. Kỷ Niệm Đầu Đời của Một Thầy Giáo Mới Ra Trường

3. Hòn Ngọc Diễn Đông Có Gì DuiHông Cưng?

4. Món Quà Tết Độc Đáo

5. Hội Chợ Tết Montréal 97

6. Hội Thảo: “Dạy Tiếng Việt…"

7. Tấm Chi Phiếu Lương Đầu Tiên

8. Chúng Tôi Tham Dự Trại Hè Hồng Đức

9. Tôi Ăn Bữa Cơm Xã Hộ

10. Tai Nạn I-mêu

Phần Mình : Chuyện Dài Ông Bà Giáo Sư Mất Dạy

1. Năm năm rồi..

2. Con vi-rút Oai-tu-kê (Y2K)

3. Bãi Biển Mộng Mơ

4. Tôi Đưa Em Sang Sông

5. Anh Sẽ Yêu Em Trọn Một Đời

6. Saigon Ơi, Tôi Đã Mất Người Trong Cuộc Đời

7. Đừng Bỏ Em Một Mình

8. Nếu Vắng Em Ai Cùng Anh…

9. Anh Mong Chờ Mùa Thu

10. Tình Nghĩa Đôi Ta Có Thế Thôi

11. Ngủ Đi Em, Mộng Vẫn Bình Thường

12. Trò Chơi Ngày Xưa, Em Cô Dâu Mới

13. Tâm Sự Cả Ngố

Phần Tay Chân : Chuyện Linh Tinh

1. Phiên Dịch Việt – Anh Theo Nguyên Tác …

2. Giò Thủ Bắc Kỳ

3. Điều Ong Tiếng Ve

Phần Ruột Dư : Bẩy Bài Xem Chơi

1. My First Paycheck, Duvan Trinh

2. A Formidable New Year’s Gift  from Uncle Ho,  Duvan Trinh

3. Ba Mươi Năm Nhìn Lại Một Cuộc Chiến, Việt Cường

4. Số Phận Thương Phế Binh VNCH, Yoshigata Yushi

5. Chẳng Thơm Cũng Thể Hoa Nhài – Một Lần Về Thủ Đô, Vương Văn Quang

6. Đừng Có Lắm Lời, Aziz Nesin

7. Bức Tranh Bìa Sách, Cả Ngố họ Trịnh

Đôi lời thẳng thắn cuối sách (ấn bản lần 2)

Ghi Chú: Dấu hiệu/ký hiệu ở tựa bài ám chỉ có phần giải thích ở cuối bài.

ĐÔI LỜI LOANH QUANH

Tập sách nhỏ này gồm những bài Cả Ngố tự viết rải rác trong nhiều năm kể từ khi sang định cư tại cái xứ đất lạnh tình nồngnày vào năm 1991.

Thực ra trong đó có những bài hắn viết khi còn ở quê nhà, và sang đây hắn mới có dịp ngồi lại sửa chữa cho hoàn chỉnh hơn theo ý mình—vì được sống trong không khí tự do, muốn viết thế nào tuỳ ý, không sợ đụng chạm tới ai để rồi phải lên đường cải tạo!

Gọi là tự viết, song tự hắn không có sáng tạo được gì mà chỉ toàn lấy trộm của người làm của mình, hoặc ăn cắpvăn, ý, lời từ những bài của các tác giả nhà nghề trên báo chí sách vở, hoặc chỉ ghi chép lại những gì hắn nghe lóm được của thiên hạ trên xe, ngoài đường, và ở chợ…đời!

Nói như thế để chứng tỏ rằng hắn chẳng có công lao gì mấy, khi ra mắt độc giả tập sách nhỏ này. (Trong sách có mấy bài không phải của Cả Ngố.) Tác giả của những bài ấy vì là chỗ thân tình, nên chẳng phiền hà gì khi thấy hắn cho bài của mình vào sách mà không hỏi ý kiến. Hắn còn đôi chút liêm sỉ nên có ghi chú cụ thể về khổ chủ.)

Hắn chỉ có chút ít công sức lao động ngồi mổ cò vào máy điện toán xách tay—ban đầu máy cũng đi mượn—trong lúc rảnh rỗi ngồi không, chẳng biết làm gì hay không đi đâu được, sau khi đã sắp xếp trong đầu những văn những ý những lời đi mượn đó thành câu kéo tiếng Việt mà độc giả đồng hương có thể đọc hiểu và thông cảm được. Thậm chí ngay cả cái tựa tập sách này hắn cũng thuổngcủa một nhà văn trào phúng nổi tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Ông Aziz Nesin (1915-1995), dù chỉ một cách gián tiếp.

 Gián tiếp là vì Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kialà tựa Việt của những tập sách nhỏ (hơn 100 cuốn) gồm những bài viết châm biếm chọc cười của nhà văn Trung Đông này. Cả Ngố không biết tựa nguyên tác là thế nào—tất nhiên bằng tiếng Thổ với chữ viết có lẽ giống như của những quốc gia vùng này, tức là có mẫu tự với nét cong qua quẹo lại lên dốc xuống đèo, được viết khít rịt nhau trông lúc nhúc như rươi—một ngôn ngữ mà hắn không có khả năng cũng như cơ duyên biết mà đọc hiểu được!

Nhưng Cả Ngố này phải phục tài mấy dịch giả người Việt đã khéo léo và sáng tạo khi chọn cái tựa Việt như thế, bởi vì chỉ trong vòng có 5 chữ, nó tóm gọn đại ý toàn bộ nội dung những truyện ngắn của nhà văn xứ Gà Tây này. (Ấy, tên Anh Ngữ của nước Thổ-nhĩ-kỳ dịch sang tiếng An-nam chính là con thú lông vũ mà dân Bắc Mỹ đút lò nguyên con và để lên bàn ăn hàng năm vào dịp Thanh Ghi-vinh trong tháng Mười Một tây!) Nội dung đó đề cập tới hầu như đủ mọi khía cạnh nghịch lý đến tội nghiệp cười ra nước mắt của sinh hoạt xã hội tại xứ ông—từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ ông bà già cả xuống tới con cháu trẻ trung, từ lòng tham lam quá đáng sang tính ích kỷ sâu đậm nơi con người… Tất cả được ông Nesin mô tả bằng một giọng văn vừa châm biếm vừa hài hước rất hấp dẫn người đọc—ít nhất là qua bản dịch tiếng Việt mà hắn có được đọc!

Cả Ngố lấy Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia làm tựa cho tập sách của mình để kể…chuyện kia xía chuyện này liên quan đến cuộc sống đa truân của mình từ sau 1975, bằng giọng văn mà hắn cố bắt chước cây viết nước ngoài ấy khi tập tễnh học đòi viết lách, muốn thành nhà dăng, ở tuổi gần phải mặc…áo quan! Thường thì cái gì gọi là bắt chước, hay nhái lại, tức là đồ dỏm, thì làm sao bằng đồ dinđược?  Phải thế không, quí độc giả?

Nhưng vẫn chưa hết chuyện nhái lại hoặc sao chép của người! Nhiều tựa đề nhỏ của những bài trong tập sách cũng là thứ cọp-dê hay lấy nguyên văn một câu thơ nổi tiếng, một lời ca hay hay trong những bản nhạc vàng phổ thôngmà nhiều độc giả cùng lứa tuổi với Cả Ngố ắt phải biết hay còn nhớ. Độc giả sẽ nhận thấy ngay đa số những tựa đề này không dính líu chút gì tới nội dung câu chuyện bên dưới.  Lý do đơn giản là vì hắn nhớ được cái gì, lấy cái đó đặt tên cho bài viết của mình! Đây là một bằng chứng nữa cho thấy hắn không có một tí tẹo óc phát minh nào khi viết linh tinh vớ vẩn như thế này.

Dù thấy nội dung tập sách của mình chẳng ra đâu vào đâu, Cả Ngố cũng chia nó ra thành từng phần cho có thứ tự, như kiểu phân chia thân thể người ta trong bài học Cách Trí cấp tiểu học cho học trò dễ nhớ.  Tức là “Thân thể người ta chia ra làm…bốn phần: đầu, mình, tay chân, và…ruột !” Ấy là hắn muốn làm ra vẻ mình cũng biết sắp xếp lớp lang trật tự trên dưới như ai!

Phần Đầu: Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia liệt kê 10 bài, trong đó có 8 bài lăng nhăng hắn đánh máy ra trong khoảng thời gian mấy năm đầu định cư tại đất người quê lạ, vào những buổi chiều hôm ngồi buồn trong căn nhà ngoại ô đi thuê, và 2 bài mượncủa hai tác giả khác (bài số 8, và số 9).

Cứ liếc qua tựa của mấy bài này trong Mục Lục, quí độc giả nào tò mò muốn đọc cũng phải phê ngay: “Đúng là chuyện nọ xọ chuyện kia thật!”

Phần Mình, hắn cho vào 13 bài (trừ bài 1 và 13 của người khác, nhưng vì có nội dung liên hệ nên được nhét vào phần này) nói về sinh hoạt của một cặp vợ chồng cựu giáo sư trung học, kể từ cái đêm quả đất quay sang và bước vào thế kỷ 21. Đây là hai thành viên ảo của một đoàn thể thực tại Montréal mà vợ chồng Cả Ngố đều là thành viên. Ảo là vì hai nhân vật này do Cả Ngố phịara và cho vào sinh hoạt chung với vợ chồng hắn trong đoàn thể đó.

Là người thường được giao trách nhiệm viết bài tường thuật những buổi sinh hoạt tập thể để in vào bản tin nội bộ của hội đoàn, Cả Ngố thấy cần phải...đẻ ra những nhân vật giả tưởng để tránh đụng chạm nội bộ mỗi khi hắn viết…hoảng.

Tên gọi chung của họ là ông giáo Thảo; tên này cũng là hình thức sao chép tên một loại đặc sản, tức là món “mắm ruốc bà giáo Thảo” ở Vũng Tàu mà dân miền Nam trước kia ai hổng biếc!

Còn thựclà bởi vì hội đoàn này có tên trên danh sách in trong các ấn phẩm tiếng Việt xuất hiện hàng năm tại địa phương. Tên đó là Gia đình Cựu Giáo chức Việt Nam tại Québec, gọi ngắn gọn là Gia đình Cựu Giáo Chức, viết tắt là GĐCGCVNQ (theo tiếng ta) và ADAEVAQ (theo tiếng tây), hay kêu cụt lủn là hội đoàn Gờ Đờ(GĐ). (Mẫu tự Qtrong tên ám chỉ tỉnh bang Québec.)

 Cái pha-minày hơi khác thường ở chỗ con cái trong nhà hầu hết đều có cháu nội cháu ngoại đùm đề cả rồi. Một cái khác nữa là số con cái của nó đông gấp rưỡi đám sắp nhỏ của Bà Âu Cơ hồi đó!

Tính đến nay Gia-đình đã trải qua hơn mười mấy mùa đông băng giá Gia-nã-đại, chạm mặt đụng mũi với nhiều đoàn thể người Diệckhác tại địa phương. Địa chỉ của gia đình khác lạ này di chuyển lung tung như cái xeo phôn đeo theo chủ nhân; tức là nó lưu động và tuỳ thuộc nơi tư dinh của ông cha hay bà mẹ toạ lạc ở đâu trong thành phố tráng lệ đa văn hoá Mông-lệ-an này.

Những bài về sinh hoạt của cặp dợ chồng ảo này được đặt tên chung là Chuyện Dài Ông Bà Giáo Sư Mất Dạy. Mất dạy vìhọ hết đượclàmthầyhaycôgiáotại quê hương mới nữa. Tên này nhái lại tên loạt bài Chuyện Dài Nhân Dân Tự Vệ kể vềnhững việc làm “phá làng phá xóm, làm mất lòng dân” của một tập thể lập ra với mục đích tốt đẹp là gìn giữ an ninh về đêm cho Saigon trước 1975. Với hàm ý đoàn thể này làm “hết chuyện đáng chê này đến việc đáng trách khác, tưởng như không bao giờ chấm dứt,” Chuyện Dài…thường thấy đăng tải trên báo chí thành phố thời đó.

Dù có tên nhái lại, Chuyện Dài…của Cả Ngố không mang ý nghĩa tiêu cực đó. Được trình bày qua cặp mắt cận thị của ông giáo sư, Chuyện…ngụ ý cho biết nó không kết cục, và sẽ kéo dài đến chừng nào ông bà giáo sư cùng vợ chồng hắn và GĐ…thăng—tức là đến khi đoàn thể này tan hàng vì không còn ai xin gia nhập, hoặc là vợ chồng hắn qua đờivì tuổi già sức yếu!

(Chuyện…trong sách này chỉ trình bày sự việc xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2006. Những năm sau đó sẽ…hạ hồi phân giải.)

Chuyện Linh Tinh, tên gọi của Phần Tay Chân, gồm 3 bài (bài đầu của tác giả khác) mà chủ đề có vẻ hơi nghiêm chỉnh. Do nội dung của chúng khác nhau quá xá, nên Cả Ngố nghĩ rằng chúng khó có thể có một tên chung nào khác.

Cuối cùng là 7 bài mà theo Cả Ngố khó có thể nhét vào chỗ nào trong mấy phần trên cho hợp lý, vì thế hắn đặt đại cho cái tên Bẩy Món…Xem Chơi (nhái tên món ăn ở nhà hàng Tàu), gom chung lại bỏ vào Phần Ruột . Ở đây hắn liệt kê những bài in lại, có tính cách trích dẫn làm một thứ bằng cớ, để tỏ rằng những gì hắn viết trong sách ít ra cũng có đôi chút sự thiệt, tức là có xuất xứ đàng hoàng. Ấy là hắn muốn làm ra vẻ mình cũng nói sách mách chứng!

Khi viết…máy những bài trong tập sách có nội dung lung tung không giống ai này, Cả Ngố dùng một loại văn chương rất bình dân, một thứ văn nói mà dân miền Nam hiền hoà chân thật thường sử dụng khi giao tiếp đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày. Vì thế nhiều từ ngữ xướng to nghe rất chói tai, đọc thầm thấy thật gai mắt, có thể gây sốc cho độc giả nào không nghe quen, chẳng thấy thường, hay có thể làm khó cho giới chỉ thích nghe lời thanh tao êm dịu và…xào xạo—như giới thầy cô giáo trong cái pha-minói trên chẳng hạn! Nhân đây, hắn xin quí vị đó bỏ qua cho. Ngoài ra, độc giả còn thấy nhiều chỗ in nghiêng.

 Đây là những từ ngữ, thành ngữ, phiên âm tiếng ngoại quốc, lời trích dẫn, hay nhại lại tiếng nói của một bộ phận người Việt địa phương, trong đó có khá nhiều ngôn từ cộng sản mới xuất hiện tại miền Nam, từ khi hầu như toàn bộ nhân dân Miền Nam ruột thịtđều bị phỏng…vào ngày 30 đen tối, tháng 4 hắc ám, năm 1975 mù mịt!

 Những từ ngữ in ấn khác biệt cố ý này được sử dụng để chọc cười, chế nhạo, châm biếm, mỉa mai hay tạo sự chú ý.

Vì một vài bài trong sách hơi có mùi chính trị, mà về pô-li-tích thì thường hay có ý kiến trái ngược, lắm khi dẫn đến oánhnhau, nên Cả Ngố ước mong độc giả cùng hắn bắt chước kiểu người Tây phương thường làm trong trường hợp có bất đồng, để giữ hoà khí. Đó là chúng ta vui vẻ nói, “Chúng ta đồng ý là chúng ta không đồng ý mí nhau ở đây,” và sau đó bắt tay cười hì hì hà hà, hoà cả làng yên hết xóm, dù trong bụng vẫn còn tức anh ách. Hay nhái lại ngôn từ cộng sản, “Chúng ta nhất chínà chúng ta không nhất chí!”

Một điểm khác nữa Cả Ngố muốn thưa thốt ở đây. Như quí độc giả vừa xem qua ở phần trên, hầu như tất cả tập sách này, từ hình thức tới nội dung, chỉ là những thứ vay mượn, đồ bắt chước, của ăn cắp,…, của người khác. Xét cho cùng, hắn nhận thấy rằng phàm làm bất cứ việc gì ở đời—để kiếm tiền bạc, để lấy tiếng tăm, hay để tìm…khoái lạc, dù muốn cho xong xuôi hay lỡ để dang dở, có may mắn đi đến thành công hay bị rủi ro đem lại thất bại, chúng ta ít nhiều đều phải cần đến sự tiếp tay vô tình hay hữu ý của người khác.

Có ai trong chúng ta khi đi nhẩy đầm múa tây mà lại không cần có pạc-tơ-ne đi ăn theo? Nói cách khác, hầu như mần bất cứ chiện gì chúng ta cũng cần phải có…hai mình! “Phải có…hai mình mới làm một mình gặp rắc rối được!” như lời nữ triết gia tài tử Mae West, “It takes two to get one into trouble.” Tức là chiện gì cũng phải có ai đó nhúng tay mới thành, mới xong, mới ra, mới nên; đã nhận giúp đỡ là phải mang ơn mắc nợ, dù người ta có đòi trả hay không!

Trong ý nghĩa đó, Cả Ngố thấy hắn cần phải có vài hàng gọi là Ghi Nhận Ân Nghĩa, đối với chủ nhân của những tác phẩm trí óc mà hắn đã mượn đỡ chẳng cần hỏi ý kiến. Đây là mục các cây viết nhà nghề thường ghi ở mấy trang đầu sách.

 Vốn là thằng chỉ giỏi bắt chước, hắn cũng bày đặt làm như thế ở đây, dù hắn chẳng phải chuyên nghiệp trong việc viết lách. Ấy là hắn muốn tỏ rằng mình cũng là người biết điều, không phải là kẻ vong ơn bạc nghĩa!

Trước hết, hắn chân thành tri ân những tác giả vô danh mà hắn đã mượn tạm văn ý lời hay bài của họ và cho vào cuốn sách này. Thực ra họ đều hữu danh, song vì thời gian quá lâu, hắn không còn nhớ hết để liệt kê ra đây. Đối với những tác giả khác, những người hắn may mắn biết tên, nhưng không biết mặt nên hổng goen, tất nhiên hắn không thể không nói lên lời biết ơn…suông. Trong số này hắn phải kể ngay nhà văn quá cố ngoại quốc Aziz Nesin, dù hắn không trực tiếp lấy tựa sách của ông và chỉ trích dẫn một bài ngắn, Đừng Có Lắm Lời; các ông Nguyễn Văn Trọng, Hoàng Anh, Thái Hà, là những người đã chuyển ngữ sách của nhà văn này từ bản Nga văn sang Việt văn; ký giả Yoshigata Yushi, với bài Số Phận của Thương Phế Binh VNCH; ông Việt Cường, tác giả bài Ba Mươi Năm Nhìn Lại Một Cuộc Chiến; và ông Vương Văn Quang, với bài Chẳng Thơm Cũng Thể Hoa Nhài—Một Lần Về Thủ Đô.

Và nhất định hắn cũng không thể quên nêu tên vài cây viết khác hắn không những biết mặt mà còn quen lớn nữa. Đó là những ân nhân lẽ ra hắn phải đến tận ấp mà tặng lẳng hoaôm hôn thắm thiếtđể tỏ lòng biết ơn sâu xa!

 Đầu tiên là anh bạn học thời trung học hắn tình cờ gặp lại tại bữa cơm xã hội của một cơ quan từ thiện thành phố, với bài Tôi Ăn Bữa Cơm Xã Hội; và kế đến là má-đàm Henrette Tran, người bạn gái…nối khố đã chia xẻ kinh nghiệm dịch thuật qua bài Phiên Dịch Việt-Anh Theo Nguyên Tác: Một Vài Kinh Nghiệm Nhân. Bả cũng là người đã chịu bỏ công ghi chép và viết thành bài Năm Năm Rồi…, và bài Tâm Sự Cả Ngố.

 Riêng đối với hoạ sĩ bức tranh bìa sách, Cả Ngố xin tri ân bằng bài viết in trong sách này.

Một gơ phen khác nếu không được nhắc đến để ghi côngthì hắn khó sống cho hết quãng đời còn lại! Nàng này thuộc loại thân thiết gần kề hơn, gần sát đến độ tối ngủ hắn phải nằm chung giường! Thực tình hắn có muốn nằm riêng cũng hổng được, bởi vì căn ấp của vợ chồng con cái hắn còn nhỏ hơn phòng tắm của biệt thự ở Oét Mao (Westmount, khu Bà Huyện Thanh Quan Lê Quí Đôn Saigon của Montreal), lấy đâu mặt bằng mà kê thêm cái ghế bố khác, phòng khi nàng…bị, hắn ra đó mà ngảo?

Thường được hắn tâng bốc là người đẹp Bình Dương (ậy, tại nàng sinh đẻ ở Thủ Dầu Một, miền Đông Nam Bộ), người bạn đầu ấp tay gối này hầu như không bao giờ đọc những bài linh tinh hắn viết (Bụt chùa nhà không thiêng mà lị!), và do vậy, có thể nói bả chẳng giúp đỡ gì được cho hắn trong việc viết lách tào lao này. Vậy thì đâu cần ơn nghĩa gì? Cần lắm chớ, bởi vì bảchị nuôi của bố con hắn!

Các cụ ta thường chẳng thường nói, “Có thực mới vực được đạo” hay sao? Hàng ngày sau khi lao động là vinh quang về, mẹ thằng cuphải xông vào bếp sửa soạn nấu nướng bữa cơm cho gia đình.  Những hôm mùa hè nóng nực, nhìn con dợ mồ hôi nhỏ giọt, xoay trở trong cái bếp nhỏ như mắt muỗi, Cả Ngố không khỏi xót xa, và thầm nghĩ, “Nàng đáng được ghi công lắm chứ! Lẽ ra mình phải mua một…cục hột xoàn…giả, tặng nàng để tỏ lòng biết ơn!”

Nhưng có lẽ điều đáng làm hắn nhớ ơn o ni hơn nữa là những lời nhắc nhở của bày trẻmỗi khi hắn chong đèn ngồi gõ bài đến khuya, “Ông đi ngủ đi! Mai dậy sớm đi làm, lấy tiền nuôi con!” Nhìn nét mặt sư tử…Bình Dương khi nổi giận và nghe giọng nói Hoạn Thư lúc lên cơn, hắn lo, bực, nhưng…nhịn để gìn giữ hoà bình quốc nội!

 Bực và lo vì những lúc như thế hắn đang táo bónchữ nghĩa, rặn mãi không ra…văn, trong khi ông thư ký của GĐ cứ hối, “Có bài chưa? Mau mau, còn đi in nữa chớ!” Nhưng cũng chính những lời chẳng mấy êm tai của mụ bạn đời đã khiến hắn tức khí và viết ra được những bài gom thành cuốn sách này!

Thậm chí đám hậu duệ của mệnày cũng là ân nhân của Cả Ngố nữa! Giống như hiền mẫu, các cậu chẳng bao giờ liếc mắt đến những bài hắn viết bằng tiếng An-nam ta, vì các cậu thường cho rằng, “Bài Póp viết hổng kun (cool)!” Với lại các cậu chắc hẳn chưa đủ trình độ hiểu cái ngoắt ngoéo trong văn viết tiếng mẹ đẻ, vì phần lớn thời gian học hành vui chơi các cậu phải dùng tiếng Phá-lang-xa hay chữ Anh-cát-lợi!

 Dù vậy, hắn vẫn phải mang ơn các cậu, bởi vì các cậu đã cung cấp cho hắn phương tiện viết lách hợp thời trang, tức là máy điện toán cá nhân xách tay, và rồi còn chỉ bảo cách sử dụng mai-cô sóp guột trên máy đánh chữ thời đại mới không cần băng mực.

Thoạt đầu các cậu cho hắn mượn máy khi rảnh rỗi, nhưng sau đó khi thấy hắn cứ đòi mượn hoài mỗi cuối tuần, các cậu đâm khó chịu bực bội vì ông bố gây trở ngại cho công việc học hành hoặc chơi…ghêm! Thế là mấy cậu bèn mua máy tối tân hơn và thải máy xài rồi cho ông già hay quấy rầy. “Cũ người mới ta! Từ giờ mình khỏi mượn chúng nó nữa!” hắn mừng rơn nghĩ bụng khi ôm cái láp-tóp mới…đã sang tay thứ nhì.

 Nhưng xài máy xếch-cần hen, hắn thấy bừng bực sao sao khi chờ mãi hình ảnh chữ nghĩa mới xuất hiện trên màn ảnh, hoặc khi có sự cố chuyên môn phải nhờ tới mấy cậu sửa chữa hay dạy dỗ. Cậu con mà hắn thường đến nhờ, dạy nhưng không dỗ, vì cậu tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi bị ông bố mang máy đến chận ngang công việc để sách nhiễu.

Chẳng nói chẳng rằng, cậu cầm con chuột cờ-lích lia lịa, làm mũi tên chạy bốn phương tám hướng trên màn ảnh nhỏ xíu, khiến Cả Ngố hoa mắt chẳng hiểu ất giáp bính đinh gì cả! Công việc xong xuôi, cậu mới nhỏ nhẹ, “Pa-pa, hiểu cách làm chưa, toa? Tờ-ré pha-xin! Ve-ri ý…dì! Còm-pờ-răng, đét-đì?” Mặc dù chưa thực sự nắm vấn đề, nhưng sợ quê, hắn vẫn bấm bụng ngập ngừng nói, “Biết…biết…dồi! Hiểu…hiểu… dồi!”

Sau nhiều lần bị hỏi hoài về một dấn đề, thằng con hết kiên nhẫn với ông già chậm nhớ nhanh quên kém hiểu, bèn cằn nhằn, “Pópơi! Du phải do-seo, ô-kê? mới biết, mới nhớ được, papa, toa!” và rồi phủi tay! Hắn ôm cả kí-lôsượng sùng, mang máy về chỗ ngồi làm việc, tự trách mình sao ngu muội quá, trong bụng rủa thầm nhưng cười lén, “Bố mày! Tao mờ không… thì chúng mày ở đâu chui ra, hử ranh con?”

Vị ân nhân cuối cùng nhưng không phải hạng bét, là một huynh trưởng của Cả Ngố trong hội Gờ Đờ nói trên. Với họ tên đọc lên nghe y chang như của tay cha đẻ đảng cộng sản Liên Xô đầu tiên, huynh trưởng này đã bỏ cả tạ công lao và hàng tấn giờ giấc để lây-ao tập sách này, từ a đến dét! Không những thế, ông anh này còn cho hắn nhiều ý kiến rất xác đáng về văn chương chữ nghĩa. Điều đáng nói ở đây là ân nhân làm tất cả những công việc này với tính cách…bố thí ba-la-mật! Vì vậy ở đây hắn xin nghiêng mình ghi nhận và tỏ lòng biết ơn thiệc từn trước bậc đàn anh tốt bụng rộng lòng.

Điểm sau cùng là về việc đề tặng ởtrangđầusách. Cả Ngố nhận thấy nhiều tác giả, nhất là những nhà chuyên viết về đề tài nghiêm trang nặng kí, có giá trị về mặt giáo dục, văn chương, nghệ thuật, giải trí, v. v., thường hay ghi tặng người này người kia. Ví dụ như có vị đề Kính Dâng Song Thân để tưởng nhớ tới công ơn bố mẹ đã quá cố; me-sừ nào nhớ dợ nhiều hơn thì ghi Thương Tặng Hiền Thê; nhưng người ta hiếm thấy má-đàm tác giả nào viết Yêu Tặng Vũ Phu—dù có thương nhớ ông xã đến đâu!

Riêng Cả Ngố không làm như thế, vì như thế có vẻ trịnh trọng và…thông thường quá! Thật ra, vì sách của hắn chẳng qua chỉ là tập hợp những bài đầu An-nam mình Cu-ba, tay tôm chân , đầu ngan đít ngỗng, chẳng có chút giá trị gì về bất cứ mặt nào trong sinh hoạt văn hoá xã hội con người, nên không đáng làm quà để tặng những vị vai vế cấp lớn như vậy.

Tập sách nhỏ này, theo hắn, chỉ nên ghi tặng những ai kém vai vế hơn mình, như con cái chẳng hạn, vì đám này dù sao chắc cũng còn đôi chút nể vì người cho mà không dám chê món quà! Như vậy xem ra có vẻ xuề xòa và…bất thường hơn!

Cho nên hắn sẽ ghi Thương Tặng 3 thằng Khờ Bê Đê, và coi đây là một thứ gia tài mà vợ chồng hắn, vì không có nhà cửa, đô-la, kim cương, hột xoàn, trân châu, mã não, hay thứ gì khác, để lại cho con cái sau khi khuất núi! Khờ, Bê, Đê là tên gọi mấy thằng nhỏ mà vợ chồng Cả Ngố đã hợp tác sản xuất vào thập niên đầu chung sống và liên kết chăn nuôi tính đến nay đã hơn mấy chục mùa thu vàng tới là mùa lá vàng rới (Thu Vàng, nhạc sĩ Cung Tiến).

Hắn hy vọng rằng sau này vào một ngày mùa đông u ám nào đó, sau khi chán chê ngồi máy chơi ghêm, các cậu bỗng cảm thấy muốn biết đôi chút về quá khứ đau khổ (!) của cha mình như thế nào, ba cậu có thể lôi tập sách này trong một xó xỉnh bụi bặm nào đó nhân dịp dọn dẹp nhà cửa, tò mò mở ra liếc qua, và ngạc nhiên tìm thấy trong sách một ít sự việc là lạ hay hay nên biết.

Với trình độ Việt ngữ hiện tại, các cậu rất có thể sẽ không hiểu hết một số từ ngữ, thành ngữ lạ trong sách, nhưng Cả Ngố tin rằng chuyện này sẽ được giải quyết dễ dàng bằng cách tham khảo bà con họ hàng lớn tuổi hơn, hoặc tra cứu sách vở tiếng Việt ở thư viện, và hoặc truy cập ở mạng lưới in-tờ-nét là nơi cung cấp tức thời đủ loại thông tin bất kể giờ giấc nơi chốn—nếu sự tò mò của các cậu đủ lớn đủ mạnh để thúc đẩy các cậu đi tìm tòi nghiên cứu đề tài mình quan tâm một cách sâu rộng thêm nữa.

Nhờ sự truy tìm này các cậu rất có thể bỗng thấy muốn học hỏi thêm về tiếng Việt; sách vở tài liệu dùng cho việc này chắc là không thiếu. Cả Ngố mong rằng từ việc làm này các cậu sẽ thông thạo tiếng Việt hơn, đọc nhiều sách vở tiếng Việt hơn, cảm thấy yêu thích tiếng Việt của mình hơn và muốn duy trì hay truyền bá nó hơn cho những thế hệ sau. Và biết đâu, từ đó các cậu sẽ thấu hiểu và thông cảm tại sao bố mẹ mình hoặc giống dân Con Lạc Cháu Hồng da vàng mũi…sửa, lại có mặt tại xứ lạnh lẽo này, hay tại những nước tự do khác trên thế giới. Mong lắm thay!

Đối với những độc giả khác, Cả Ngố hy vọng rằng Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia của hắn có chứa đựng đôi điều có thể thọc lécđược. Nếu được như thế thì hắn sẽ luôn luôn mỉm cười nơi chín suối.

 Hy vọng thay!

Cả Ngố họ Trịnh

                                         The best way to cheer yourself up is to cheer somebody else up. Mark Twain

Phần Đầu : Chuyện Nọ Xọ Chuyện Kia

1. THĂNG LONG CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?☺ (HÀ NỘI ĐẦU THẬP NIÊN 90)

Đôi lời dẫn nhập: Vào dịp mấy ngày nễ nớn của vi-xi trong năm 1990, tôi ra Hà Nội trong một chuyến đi mua bán đột xuất. Bên bán có nhã ý mời chúng tôi đi xem để chứng tỏ rằng món hàng có thật, không phải chỉ có trên hình ảnh cho chúng tôi coi trước đó. Tuy là người gốc Bắc kỳ ăn cá rô cây, tôi không có hân hạnh được sinh trưởng ở đất Hà thành bốn ngàn năm văn vật. Những gì tôi biết về thành phố này được ghi nhận qua cặp mắt mở lớn nhìn cái gì cũng thấy lạ của một cậu bé quê mùa cục mịch chưa qua tuổi dậy thì, ra tỉnh lần đầu.

Hơn nữa, thời gian tôi ở lại đây không lâu, và chỉ được cho đi đến nhà người quen, không được đi tham quan những danh lam thắng cảnh của Hà Nội, cho nên tôi không còn nhớ gì nhiều về những nơi mình đã đi qua. Chính vì thế, nếu có ai bảo rằng “Tay này ngô nghê ngờ nghệch, chả biết gì về Hà Nội” thì tôi cũng chẳng cần đính chính mần chi. Và cũng chính vì thế, không ai có thể phê phán rằng tôi có thành kiến về thành phố này cả.

Trong tinh thần đó, tôi hy vọng bài dưới đây khách quan và trung thực khi nó mô tả lại những điều mắt thấy tai nghe ở những nơi tôi đi qua trong thời gian ngắn ngủi ở thành phố lần này. Nếu chẳng may có chỗ nào không nên không phải, tôi xin quí độc giả người Hà Nội chính cống Bà Lang Trọc chấn chỉnh và tha lỗi cho.

***

Hà Nội đón chúng tôi bằng một trận mưa tầm tã. Tiếng mưa rơi lộp độp liên hồi trên mui xe càng rõ nét khi trong xe hoàn toàn im lặng. Xe có máy lạnh cửa kín mít nhưng tôi vẫn cảm nhận được mùi nước mưa mát lạnh bên ngoài chui vào. Mặc dù sắp tới nơi nhưng hành khách ai cũng đang mơ màng giấc điệp, vì quá mệt mỏi sau mấy ngày ngồi xe đường trường dằn sóc ê ẩm mình mẩy—trừ bác tài xế và tôi. Bác phải tỉnh táo để lái xe; tôi phải thức vì khó ngủ...ngồi!

Quét thoăn thoát qua lại trên tấm kính trước xe là “hai cái gạt nước xua đi nỗi nhớ” (lời bài hát Trường Sơn Đông Trường Sơn Tâycủa một nhạc sĩ Bắc-kỳ), nhưng chúng vẫn không lùa kịp nước mưa ào ào đổ xuống, khiến kính mờ hẳn đi. Tuy thế, tôi vẫn thấy những hạt mưa bên ngoài rơi thành đường gần như thẳng đứng óng ánh trong vùng ánh sáng của đèn pha xe hơi, trông y như những vết xước trong phim chiếu bóng trắng đen quá cũ. Chiếc Toyota 12 chỗ ngồi còn khá mới chạy như lao vào màn mưa. Mỗi khi chạy qua một vũng nước trên đường, nó làm tóe nước sang hai bên như chiếc ca- rẽ sóng trên mặt sông.

Trận mưa to nhưng không lâu. Khi xe chạy trên quốc lộ 1 dẫn vào trung tâm thành phố thì mưa tạnh hẳn. Khúc đường này rộng như đường Nguyễn Huệ, Saigon. Hàng đèn cao áp chạy ở giữa, kiểu y như trong Nam, toả ra một thứ ánh sáng trắng dịu như ánh trăng xuống đường phố im lìm vắng vẻ. Mặt đường còn ướt phản chiếu ánh đèn đường trông lóng lánh như thủy ngân.

Tuy đã vào thành phố nhưng bác tài vẫn cho xe chạy khá nhanh, có vẻ như sốt ruột muốn mau tới nơi để tìm chỗ nghỉ mệt. Đường phố vắng tanh không một bóng người; nhà cửa hai bên nằm im bất động. “ĐM, con đường đến khách sạn đâu rồi?” bác tài lẩm bẩm. Hẳn là ông này đã ra đây mà bây giờ quên đường! Vẫn giữ tốc độ đó, bác tài lúc quẹo phải khi rẽ trái, và rồi cuối cùng reo lên mừng rỡ, “A, đây rồi!”

Tiếng reo làm mọi người tỉnh giấc. Khi xe vừa đậu lại, hành khách không ai bảo ai lục tục xuống xe, kẻ vác người khênh hành lý của mình theo nhau vào phòng tiếp tân, mong được chỉ phòng để đi ngủ ngay cho phẻ. Vừa bước ra khỏi xe, tiếp xúc với không khí thiên nhiên tươi mát của Hà Nội buổi sáng sớm, tôi cảm thấy tỉnh táo khoẻ khoắn hẳn ra, sau khi trải qua nhiều giờ ngồi trong xe bít bùng. Nơi tiếp tân không hiểu sao lại vắng như chùa Bà Đanh và chẳng có đèn đuốc sáng trưng như ở những khách sạn trong Saigon. Khi một người nào đó tìm ra chỗ bật đèn, căn phòng sáng hẳn lên, giúp chúng tôi nhận dạng nơi mình đang đứng.

Chiếc đồng hồ tròn lớn treo trên tường sau quầy chỉ 3 giờ Một hàng ghế bành lớn bọc nệm nâu trông rất êm ả mời chào khách mỏi mệt vì đường xa, đặt nhìn ra lối vào khách sạn và quay lưng về phía tường kính đằng sau. Qua bức tường kính tôi thấy mấy cây cảnh xanh tốt. Có lẽ đó là một thứ sân lộ thiên để lấy ánh sáng ban ngày.

“Đến giờ này, người ta đi ngủ hết là phải!” tôi thầm nghĩ, trong khi liên tưởng tới cảnh ở khách sạn các nước tự do, nơi khách được nhân viên tiếp tân ăn mặc chỉnh tề lịch sự tươi cười đón tiếp bất cứ giờ nào trong ngày khi khách đến.

           Trong khi một người bên chủ hàng đi tìm liên lạc viên là người đã ra Hà Nội trước để sắp xếp chỗ ăn ở cũng như chương trình làm việc cho chuyến đi này, tôi và những người khác để đại hành lý xuống sàn nhà, rồi kẻ thì đứng xớ rớ không biết làm gì, người thì a vào mấy cái ghế bành nằm duỗi chân sải tay ra vẻ thoả thê lắm.

           Tôi đang thơ thẩn đọc mấy bích chương quảng cáo du lịch nơi quầy thì người ấy trở lại, dẫn theo liên lạc viên. Trong bộ đồ ngủ và với dáng điệu ngái ngủ, ông này cho biết là đã đặt phòng và vì chờ mãi không thấy chúng tôi đến, ông ta đi ngủ. Nói xong ông liền đi tìm nhân viên tiếp tân của khách sạn để yêu cầu họ chỉ phòng cho chúng tôi đi nghỉ, mai còn đi Hải Phòng, theo như chương trình dự định.

           Một lúc sau, tôi nghe tiếng, “ĐM, tới phiên mày. Đâu phải phiên tao. ĐM mày!” (Quí độc giả Nam kỳ hẳn cũng biết là tiếng chửi thề Bắc hay Nam viết tắt giống nhau, và ý nghĩa cũng chẳng khác!)  Và rồi sau đó tôi mới thấy người.

           Hai thanh niên từ phía thang máy đi ra. Tuy ăn mặc -mibỏ trong, hai chàng này trông chẳng giống nhân viên tiếp tân tí nào cả. Đầu để tóc rối beng, người mặc quần áo nhàu nát, chân đi dép lẹp xẹp là thứ bằng nhựa trắng đục hay trong suốt, một kiểu rọ duy nhất mà hầu như tất cả dân số VN từ vĩ tuyến 17 trở ra hoặc tất cả con cháu Già Hồđều dùng vào thời điểm ấy! Đã vậy, bộ mặt lại nhăn nhó như khỉ ăn gừng, tỏ vẻ bực tức như bố vợ phải đấm, vì bị đánh thức lúc gà gáy canh ba, khi đang nồng say giấc điệp.

           Nhưng rồi một chàng chịu lép vế, đi ra quầy, và sau khi tham khảo số sách, trao chìa khoá phòng cho chúng tôi. Chúng tôi lại người xách bị kẻ mang bao đi ra thang máy ở cuối hành lang đối diện với quầy tiếp tân. Sau này tôi được cho biết khách sạn này thuộc loại sang nhất nhì ở thủ đô của nước lúc nào cũng tự hào là “cái nôi của loài người” này. Nó là loại khách sạn chỉ dành cho khách ngoại quốc, khách quí từ các nước anh em, cán bộ cao cấp hoặc khách có nhiều đô-na trong Nam ra.

           Nhưng sao lúc đó tôi không thấy nó xứng đáng với danh xưng ấy chút nào. Hành lang dẫn ra thang máy hơi thiếu ánh sáng, nhưng tôi cũng thấy được lờ mờ bàn ghế chồng chất lên nhau vô trật tự bên trái lối đi, cao gần đến trần nhà. Hai cái thang máy có cửa nhỏ xíu, mà một cái được biết không sử dụng được, trông cáu bẩn và cũ kỹ. Phía bên trong cũng không sạch sẽ sáng sủa gì hơn; đặc biệt ở đây tôi còn nghe mùi ẩm thấp xen lẫn mùi mồ hôi người lâu ngày không được tẩy rửa lau chùi.

Lên đến phòng, tôi cùng người bạn chung phòng vội vã làm những việc vệ sinh cần thiết, thay quần áo, leo lên giường ngủ một mạch không biết chời chăng gì nữa cho đến sáng. Khoảng mười giờ sáng chúng tôi được đánh thức dậy và cho biết phải sửa soạn đi ăn sáng ngay để đi Hải Phòng cho kịp đi về trong ngày.

           Trong khi chờ đợi người bạn làm vệ sinh cá nhân, tôi mở cửa bước ra ngoài, đứng trên ban-côngnhìn xuống đường. Bên ngoài thời tiết mát mẻ dễ chịu hơn ở Saigon vào thời điểm này, mặc dù mặt trời lúc ấy đã lên khá cao, chiếu những tia nắng chói chang. Trong tầm nhìn của tôi là khoảng không gian khá rộng đầy cây cối xanh tươi, chấm phá đó đây bằng những mái nhà ngói lụp sụp cổ kính bên cạnh những cao ốc mái bằng hiện đại.

Chiếm một diện tích khá rộng trong khoảng trống đó là Hồ Hoàn Kiếm với mặt nước xanh rêu lóng lánh ánh mặt trời, ở giữa nhô lên nổi bật tháp rùa nâu đen. Đường phố trông như những con kênh đào thẳng tắp ngang dọc đẫn đến hồ, chia khoảng không đó thành những hình kỹ hà học mỹ thuật và vui mắt.

           Ngay dưới chân khách sạn là một hồ nước khác nhỏ hơn, mặt nước cũng màu xanh rêu lăn tăn gợn sóng. Tôi được biết đây là hồ nhân tạo, để tạo cảnh trời mây non nước cho khách sạn, và để lấy đất làm nền cho nhà cửa chung quanh hồ. Đó là những chung cư mà chính quyền Hà Nội xây để giải quyết nhà ở cho công nhân và nhân dân thành phố hiện đang phải chui rúc trong những căn nhà cũ kỹ chật hẹp kém vệ sinh.

           Khi chúng tôi mặt mày tươi tỉnh, quần áo tươm tất, xuống dưới nhà thì những người kia chưa ai có mặt. Trong khi anh bạn chung phòng đi tìm họ, tôi ghé vào căng-tincủa khách sạn kiếm cái gì ăn đỡ đói. Chỗ này chẳng có gì đáng nói, bởi vì nó cũng bán những thức ăn sáng bình thường như những nơi khác. Có khác chăng là kiểu sợ ăn quịt xã hội chủ nghĩa—khách phải trả tiền trước rồi mới được ăn hay uống! Lúc tôi ăn xong và trở lại quầy tiếp tân thì mọi người đã sẵn sàng lên xe.

           Người hướng dẫn bảo xe chạy thẳng ra phố Nguyễn Khuyến, nơi chuyên bán bún chả rất ngon. “A, đây là món mà văn sĩ Thạch Lam đã làm thành bất hủ qua cuốn Hà Nội Băm Sáu Phố Phường đây,” tôi nghĩ bụng. Cảnh đầu tiên đập vào mắt tôi khi ra đến phố là người đi xe đạp chiếm đa số trong dòng lưu thông. Số xe gắn máy ít hơn nhiều, phần lớn là các hiệu lạ hoắc sản xuất tại các nước cộng sản, còn hiệu Honda hầu như rất hiếm vào thời điểm này. Cái mà ở đây người ta gọi là ô-tô con càng hiếm hơn, ngay cả xe díp Liên-xô cũng vắng.

           Hàng quán hai bên đường cũng nhiều ngang ngửa như ở Saigon cùng thời, và người đi lại cũng tấp nập không kém. (Xin nhắc lại ở đây chút xíu là kể từ Đại hội Đảng CS năm 1986, nhà cầm quyền Hà Nội có nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước đối với thương mại tư nhân. Nhờ đó dân chúng được phép mở hàng quán buôn bán linh tinh kiếm sống qua ngày.)

           Một điểm khác nữa đáng chú ý là những đường phố tôi đi qua trông dơ bẩn như những đường chung quanh chợ Cầu Muối Saigon lúc chưa quét dọn! Trong lòng đường cũng như hai bên lề tôi thấy nhiều loại rác, từ miếng giấy gói kẹo cho đến mảnh lá chuối bọc xôi. Tôi có cảm tưởng như người ta chưa hề quét đường phố bao giờ.

           Một lần duy nhất tôi thấy nhân viên vệ sinh làm việc là lúc chúng tôi ghé vào trạm đổ xăng trên đường ngang Nhà Hát Lớn. Nhìn người phu quét rác cô đơn gầy còm, mình khoác bộ quần áo nhà binh cũ rách (có lẽ người này là lính giải ngũ mà ở đây gọi là bộ đội phục viên), đầu đội nón cối bạc màu mưa nắng, tay cầm cây chổi cán dài đưa qua lại một cách mệt mỏi chán nản, tôi có cảm tưởng đây là một bù nhìn đuổi chim ở miền quê, đang bị gió thổi đong đua, chớ không phải là một con người bằng xương bằng thịt đang làm việc!

           Sau này khi có dịp đi bách bộ quanh khách sạn mình ở, tôi nhìn kỹ trong số rác rưởi trên đường không thấy có bao ni-lông—có lẽ không ai vứt thứ đó hoặc đã có người lượm mất rồi. Ngoài ra, tôi còn thấy những bãi phân, không biết của người hay thú, đang hấp dẫn bày nhặng xanh bay vo ve bên trên. Tôi nghe nói đa số nhà ở Hà Nội bây giờ vẫn còn sử dụng cầu tiêu thùng như hồi đó, có người đến lấy đem đi hàng ngày (người ta vẫn dùng phân này để bón rau xà-lách trồng ở vùng ngoại ô; hèn gì người ta chẳng gọi phân này là phân bắc!)

Loại nhà này rất dơ bẩn và hôi thối, đặc biệt tai chúng ta còn được nghe tiếng nhặng xanh bay lên rào rào như ong vỡ tổ mỗi khi chúng ta có việc cần phải vào đó!

           Tình hình cầu tiêu như thế cho nên nhiều người dân thành phố có lẽ thấy việc xả bầu tâm sự ngoài đường lúc vắng người qua lại vừa sạch sẽ vừa mát mẻ hơn nhiều (nhất tắm sông, nhì ỉa đồng, mà lị), hoặc túng quá đi đại vào tờ báo Nhân Dân, xong quăng ra đường. Thật là đôi bên đều có nợi—mình trút được cơn buồn khó chịu, người hốt được phân thoải mái!

           Một điểm đáng chú ý khác nữa là trên những phố mà tôi có dịp đi xe hay đi bộ qua, tôi thấy nước thải trong nhà dân hai bên đường chạy dọc hai bên mép lề, dẫn đến miệng cống chung. Trong những mương lộ thiên này, một làn nước đen đen lóng lánh dưới ánh mặt trời lững lờ trôi, mang theo không biết bao nhiêu thứ mà con người Hà thành chối bỏ!

           Con đường Nguyễn Khuyến hai bên có nhiều hàng bún chả cũng được trang điểm bằng hai con mương nước thải này. Và may mắn thay, tôi không nghe mùi khó chịu của nó, mà thay vào đó tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi thịt nướng dễ thèm từ bên ngoài thấm vào trong khi xe rề rề sát lề, tìm hàng ưng ý ghé vào. Cuối cùng xe chúng tôi ghé vào một hàng có lẽ quen với người hướng dẫn.

Mùi thịt nướng trên than hồng hấp dẫn thực khách háu đói bao nhiêu thì nó cũng lôi kéo đám ruồi nhặng hám ăn bấy nhiêu. Không hiểu sao ở khu hàng ăn này lại nhiều ruồi đến thế! May thay, ruồi này thuộc giống nhỏ ở trong nhà, không phải loại lớn ở ngoài nhà xí! Dù loại nào đi nữa thì sự hiện diện vù vù của chúng cũng không làm tăng thêm phần ngon miệng cho khách đến ăn chút nào.

           Để đuổi đám côn trùng bay thính hơi này một cách liên tục, ở đây người ta cũng bắt chước trong Nam là lấy mô-tơđiện nhỏ, gỡ ở những máy móc ra, và thay vì cánh quạt người ta gắn một thanh ngang dài khoảng hai tấc, hai đầu buộc mấy tua vải dài, rồi treo trên quầy bày thức ăn đồ uống. Khi cho quay, con rối đuổi nhặng điện khí hoá này trông giống như nghệ sĩ múa lụa trên sân khấu!

           Tuy vậy, đám ruồi đói khát kia hình như quá quen với cái máy quay cuồng này, chỉ bay lên chút xíu rồi lại xà xuống ngay. Có nhiều con chẳng thèm bay đi, cứ thoải mái đậu trên miếng thịt và bình tĩnh dùng vòi phập phập xỉa xói vào miếng mồi như người thợ xây cất đầm nền cho bằng! Có lẽ cảm thấy bù nhìn máy không có ép-phê mấy, các cô bán hàng, người nào người nấy ăn mặc và trang điểm như chị em ta, đứng sau quầy gần cửa ra vào dùng đôi tay gầy hoặc quạt giấy mỏng, quơ qua lại như đuổi tà, trong khi miệng cười toe toét mời chào khách hàng vào quán mình.

           Nhìn đám ruồi bay tứ tung trên quầy cũng như ở những bàn có khách bên trong, và bề ngoài luộm thuộm kém vệ sinh của quán, tôi lấy cớ đã ăn sáng rồi, không vào. Trong khi những người đồng hành vào ăn điểm tâm, tôi đi dọc theo đường này để thăm dân cho biết sự tình.

           Phần lớn những nhà trên khúc đường này là hàng bún chả mà bề ngoài cũng đại khái như mô tả bên trên. Tuy đi trong khói thịt nướng thơm ngon hấp dẫn, tôi cũng không cảm thấy muốn ăn khi nhìn con mương nước thải chẩy ngay sát chân mình.

           Bây giờ ánh nắng mặt trời đã khá gay gắt. Để tránh nắng tôi đi vào một nơi có mái hiên che. Khi tôi đang nhìn xem bên trong người ta buôn bán cái gì thì cảm thấy mấy giọt nước lành lạnh rơi thấm vào đầu, qua lớp nón vải. Nhìn lên tôi thấy trời trong xanh xuyên qua mấy lỗ thủng trên mái tôn. Thì ra người ở trên gác tiện tay đổ nước xuống đường cho nó hoà vào con mương phía dưới. Tôi chẳng hiểu đó là nước gì, nhưng hy vọng đó không phải là nước giải! Lúc ấy tôi mới hiểu câu bấy lâu nay người trong Nam thường kháo với nhau: “Tự nhiên như người Hà Lội!”

           Không dám đi xa nữa, tôi quay lại. Khi tôi về đến nơi thì mấy người kia cũng vừa ăn xong. Thế là chúng tôi leo lên xe hướng Hải Phòng trực chỉ. Cảnh đường phố nơi xe chúng tôi đi qua để ra khỏi thành phố cũng tưong tự như tôi mô tả ở trên, tức là dơ bẩn. Khi xe dừng ở chân cầu qua sông Hồng (?), tôi thấy quang cảnh cũng giống như ở chân cầu Biên Hoà trong Nam, thời xe phải chờ qua cầu. Ở đây cũng có những quán xập xệ và người bán rong rao hàng ơi ới, tuy trông có vẻ nghèo nàn, dơ bẩn và mất trật tự hơn.

           Quang cảnh kém mỹ thuật đó được thay bằng cánh đồng lúa bao la chạy tít tận chân trời khi xe ra khỏi thành phố. Dưới chế độ luân canh, cánh đồng chỗ xanh ngát của màu mạ đến thì, chỗ trắng bạc của ruộng mới cấy, chỗ vàng óng của lúa sắp gặt, thỉnh thoảng điểm đó đây đôi ba con trâu đen bò vàng an nhàn gặm cỏ, và một vài đám nông dân cặm cụi làm việc. Khi được ngắm nhìn cảnh miền quê thanh bình an lạc đó, tôi có cảm giác dễ chịu và thích thú, nhất là trong xe lại có thoang thoảng mùi lúa mới thơm tho bên ngoài thấm vào.

Tuy mặt trời đã lên cao, song tôi không nghĩ là bên ngoài nóng lắm bởi vì tôi thấy ngọn lúa đong đưa chập chờn qua lại dưới sức gió, và mặt nước lăn tăn sóng gợn ở con mương nước trong xanh, chạy song song với đường xe chạy.

           Hơi quá trưa chúng tôi ra đến Hải Phòng. Sau khi ăn trưa, chúng tôi được đưa đi xem hàng ngay. Tôi cảm tưởng có trục trặc đâu đó khi một người nhận là chủ hàng đã đi theo chúng tôi từ trong Nam lại vắng mặt, và thay vào đó là một người khác cũng nhận mình là chủ hàng! Như vậy là vụ mua bán này khó có thể trôi chảy. Đây là tình trạng mua bán lòng vòng giữa con cháu Bác với nhau trước khi hàng được chụp hình đem chào khách. Sau này chúng tôi được biết chỉ có một đống sắt vụn mà hai ba người đều nhận là chủ nhân, không biết ai thật ai giả nữa. Và quả thật như vậy: khi về đến Saigon, chúng tôi nêu những thắc mắc trên, những không được trả lời ổn thoả, vì vậy chuyện làm ăn bất thành.

           Khi đến một đống sắt vụn cao như một quả đồi nhỏ, người hướng dẫn cho biết đó là hàng muốn bán. Dù chẳng có gì làm bằng cớ rõ ràng hàng này thuộc chủ quyền bên bán, tôi cũng được lệnh lấy máy hình leo lên chụp lia lịa. Tôi cũng làm như vậy khi đi qua một đống khác.

Chúng tôi suy luận rằng họ đã chịu chi phí cho chuyến đi tốn kém này nên hẳn phải có ý muốn bán được hàng. Sau đó chúng tôi trở về Hà Nội.

Vì có chút thời gian tự do trước khi về Saigon sáng sớm hôm sau 1 tháng 5, nên khoảng sáu bẩy giờ chiều 30-4 tôi đi tản bộ trên bờ Hồ Hoàn Kiến hóng mát ngắm cảnh. Chiều nay ngày lễ nên bờ hồ người qua lại tấp nập, chen chân muốn không lọt. Trừ một số thanh niên nam nữ ăn mặc màu sắc vui mắt, còn đa số đàn ông đàn bà phục sức nghèo nàn ảm đạm tuy lành lặn, trong khi nét mặt người nào người nấy hình như có cái gì u uất không vui.

Tại chỗ tôi đi bộ, bờ hồ khá rộng và có nhiều cây to bóng mát. Rải rác đó đây dưới bóng cây là những băng xi-măng để khách nghỉ chân. Những cái gần sát mép nước thì không hiểu sao lại rất thấp, hầu như không còn thấy chân. Có thể trải qua nhiều thế hệ, biết bao nhiêu cặp tình nhân già trẻ đã ra đó ngồi tâm tình và làm chúng lún sâu xuống đất đến thế chăng?

Nằm cách xa chỗ người đi bộ phía trong này, mấy băng này hôm nay đã bị chiếm hết. Trên băng là những cặp người mà tôi nghĩ phải là nhân tình nhân ngãi thế nào mới có kiểu ngồi như nằm ôm ấp đùm bọc lấy nhau thân thiết như thế kia! Họ ngồi như thế có vẻ như quên cả thời gian cùng thế giới chung quanh và quên luôn chiếc xe đạp dựng vội vã nghiêng ngả phía sau lưng. Trước mặt họ là nước hồ xanh đen gợn sóng lăn tăn trong làn gió nhẹ. Xa xa là Tháp Rùa mà hôm đó được chăng đèn xanh đỏ nhấp nháy trong không khí mờ ảo đùng đục như có sương mù của một buổi chiều tà cuối xuân đầu hạ. Tình nhân mà được ngồi trong khung cảnh thanh bình, mát mẻ và nên thơ như thế để tâm tình, thề non hẹn...hồ, hẳn phải là thích thú và khó quên!

Khung cảnh này có lẽ nên thơ và tình tứ hơn nếu chiều hôm ấy không có đám trình diễn văn nghệ ngoài trời mừng ngày 30-4, đang đàn hát xập xình phía bên kia đường. Tiếng đàn chát chúa, tiếng trống inh tai, phụ hoạ cho tiếng hát the thé của một nghệ sĩ nhân dân nào đó đang gân cổ rống lên nào là “chiến đấu,” nào là “chiến thắng,” nào là “thành công vĩ đại,”..., làm mất đi cái yên lặng mà những cặp tình nhân kia cần có để thưởng thức những nụ bú môi (động tác trong Nam gọi là hôn môi), hoặc để thổ lộ tình yêu trong lúc đôi tim non hay sồn sồn đang thổn thức thình thịch trong lồng ngực!

Vẻ nên thơ, nét hữu tình đó cũng bị giảm đi khá nhiều khi thoang thoảng trong không khí người ta nghe mùi a-mô-nhắcbay ra từ cái nhà hình hộp xây ngay trên bờ gần đó. Khi nhìn bề ngoài luộm thuộm dơ bẩn, u ám, rêu phong và ướt át của nó, cũng như nghe cái mùi khai nồng đặc biệt thoát ra từ đó, không ai có thể chối rằng đó không phải là nhà xí công cộng!

           Rời bờ hồ, tôi đi dọc con đường Hai Bà Trưng, hướng về cái ngõ mà tôi nghe nói có bán nhiều loại xôi. Tôi định ăn xôi thay cơm chiều nay trước khi về khách sạn—tôi vẫn ưa của nếp! Con đường mang tên hai nữ anh hùng này khá rộng và có cây (cây bàng?) hai bên, trong lúc nhá nhem trông có vẻ sạch sẽ và đẹp đẽ, tựa như đại lộ Thống Nhất Saigon. Tiếc thay, nó cũng có hai mương thoát nước hai bên như những con đường khác mà tôi mô tả ở trên.

Dưới ánh đèn đường, tôi có thể nhận ra nhà nào được chăm sóc quét vôi tử tế; nhà nào ở tình trạng từ hồi còn mồ ma Tây đến giờ, tức là tường rêu mốc lở loét, lòi gạch, trông loang lổ xấu xí; nhà nào có mái hiên che thêm miếng vải bạc màu hay miếng tôn rỉ sét; hoặc nhà nào bày bàn ghế thấp nhỏ, bán giải khát trước nhà; lề đường chỗ nào tráng nhựa phẳng phiu, chỗ nào còn lát đá ong lổm chổm.

Ở gần ngã tư nơi tôi định đến, tôi thấy một đống rác đã bị bới bừa bãi ra chung quanh, chiếm một khoảnh lòng đường. Tại đây có năm ba bóng đen đang lúi húi bươi móc. Chắc là họ đang tìm kiếm thứ gì có thể sử dụng hoặc đem bán được!

Cái ngõ Hàng Bông mà tôi ghé vào ăn xôi là con đường hẻm tráng nhựa nhỏ xíu, rộng khoảng hai ba thước tây. Trên lề hẹp là hàng quà đủ thứ mà đa số là hàng xôi—xôi đậu xanh, xôi bắp, xôi lạc (đậu phụng), xôi trần, xôi lạp xưởng, v.v. Tôi vào hàng xôi ngay đầu ngõ vì thấy cô bán hàng ngồi có một mình!

Gian hàng vỏn vẹn chỉ có một cái bàn hình chữ nhật chưa đầy một mét vuông, chung quanh ba mặt là ba băng gỗ thấp lè tè cho khách ngồi Trên bàn trải tấm vải nhựa in hoa xanh bạc màu là mấy đĩa dưa leo thái sẵn, một hũ thủy tinh đựng ruốc (thịt chà bông), một tô đựng khoanh chả lụa to tướng, cùng mấy lọ tăm và một ống đũa. Điều đáng ngạc nhiên là ở đây không thấy ruồi—có lẽ buổi tối chúng phải đi ngủ! Sự vắng mặt của đám sinh vật chẳng mấy ai ưa này làm tăng vẻ ngăn nắp vệ sinh cho gian hàng xôi bé nhỏ của người con gái Hà thành.

Bề trên sạch sẽ này thật tương phản với cái mương nước thải bên dưới, trong đó một dòng nước đen kịt loang loáng phản chiếu ánh đèn đang âm thầm lặng lẽ lờ đờ di chuyển ngay bên cạnh thực khách. May thay, loại nước này tôi chỉ nhìn thấy mà không nghe thấy. Mùi thịt nướng ở các hàng quán khác trong ngõ bay ra đánh át nó đi chăng?

Cô hàng bán xôi tuổi độ đôi tám, trông không có gì là “chim sa cá lặn” trong bộ đồ vải in bông xanh lợt hơi bạc màu nhưng sạch sẽ, ngồi phía sát tường, sau cái bàn, giữa hai nồi xôi khá to ủ trong hai cái thúng. Khi thấy tôi bước vào hàng mình, người đẹp thỏ thẻ, “Mời ông xơi xôi, ạ!” trong lúc nét mặt vẫn nghiêm nghị, không ban cho tôi nụ cười con gái Hà Nội kiêu sa nào!

Tôi gọi xôi và ruốc. Khi cô nàng mở nồi xôi, khói bay ra nghi ngút làm thơm lừng cả một vùng cửa hàng nhỏ bé. Xôi nếp Bắc mà, trông thấy là muốn ăn. Xôi nóng ăn với thịt chà bông, kèm dưa leo chấm nước tương, ngon đáo để. Vừa ăn tôi vừa lân la hỏi chuyên cô hàng về món xôi vò chè đường là món mà tôi vẫn thích ăn. Cô nàng trả lời không biết.

Nếu tại tôi vừa xấu trai, vừa vô duyên nên cô nàng không thèm tiếp chuyện thì tôi đành chịu, bởi lẽ tôi không thể nào biến mình ngay như hoàng tử cóc được! Nhưng nếu quả thật cô không biết thì, hỡi ôi, tiếc thay cho “Hà Nội Băm Sáu Phố Phường”! Không biết làm cũng phải biết ăn! Cô bé không biết; như vậy hẳn cô không phải là người Hà Nội puya len, và vì vậy, cô không thể nào sánh được với người Hà Nội kiêu sa kiểu cách và hay ăn quà...vặt!

Nhận thấy có lẽ mình không hấp dẫn đối với cô hàng xôi, và đã hơi trễ, tôi đứng dậy trả tiền, chào tữ giã người đẹp ít nói và trở về khách sạn. Để thay phần kết luận, tôi kể ra đây điểm sau cùng về chuyến đi làm ăn không thành công này. Tuy nó chỉ có tính cách bên lề nhưng cũng đáng chú ý.

           Một lần khi xe đi ngang qua lăng Hồ Chủ Tịch, chúng tôi yêu cầu bên bán thu xếp cho chúng tôi vào chiêm ngưỡng dung nhan vị Cha Già Dân Tộc nằm trong lồng kính, cho thoả lòng mong ước bấy lâu nay. Trước lăng, thiên hạ đã xếp hàng rồng rắn dưới trời nắng chang chang, đợi tới phiên mình. Vừa nghe xong lời yêu cầu có tính cách lấy điểm của chúng tôi, một ông cán bộ trong xe bàn ra ngay, “Chúng ta xuất hành đi làm ăn mà vào xem cái thây ma thối ấy làm gì cho xui xẻo ra!” (tư-92)

☺ Xin xem thêm bài “Điều Ong Tiếng Ve…” ở Phần Tay Chân; và bài “Một Lần về Thủ Đô…” ở Phần Ruột Dư

Honesty is the best policy. Miguel de Cervantes

2. KỶ NIỆM ĐẦU ĐỜI CỦA ÔNG GIÁO MỚI RA TRƯỜNG THÂN TÂM TRẺ DẠI

[Thân tặng Bạn Lê Tấn Kiệt, Hiệu Trưởng VNCH sau cùng của Trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên]

Năm 1965 khi ra trường và chọn Long Xuyên (LX) làm nhiệm sở đầu tiên trong đời godautre của mình, tôi không ngờ mình đã lựa nhằm một nơi “đi dễ khó về,” bởi vì tôi không biết dân miệt vườn lục tỉnh có câu hò: Long Xiên đi dễ khó dìa, Trai đi có dợ, gái dìa có con.

Thực ra, các tỉnh Miền Tây khác cũng “đi dễ khó về,” bởi vì Bến Tre, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Rạch Giá, v. v., đều có những cái dễ thương như LX, và đều có thể thay thế một cách dễ dàng vào chỗ LX, dù có trường hợp gượng ép, mà không làm mất đi cái đáng yêu của câu hò bình dân nói trên. Tuy nhiên, khi chúng ta khó tính hơn một chút, bảo phải đúng luật bằng trắc của thơ lục bát thì mới đạt thì các địa danh như Châu Đốc, Rạch Giá không chấp nhận được; Bến Tre, Vĩnh Long, Bạc Liêu tạm phù hợp vì có luật trừ nhất tam ngũ bất luận; Cần Thơthì hợp với luật bằng trắc, nhưng theo tôi, nếu hai chữ đều không dấu thanh thì nghe hay hơn. Rút cục lại, chỉ có Long Xuyên là vừa đúng luật vừa không dấu thanh cả hai, nên câu hò trên nghe càng hay tuyệt!

Trong hai niên học phục vụ tại thị xã khó dìanày, tôi và mấy bạn đồng nghiệp thường đi những thành phố chung quanh đó để “thăm dân cho biết sự tình” vào những ngày nghỉ lễ hay cuối tuần. Những chuyến đi này lại càng làm cho tôi nhận rõ rằng Long Xuyên của tôi là nhức. Này nhé, Cần Thơ tuy rộng và có Bến Ninh Kiều nổi tiếng, nhưng ồn ào bụi bặm vì xe nhà binh nhiều quá! Rạch Giá nhỏ hơn, trông cũ kỹ, bãi biển bùn lầy hơi...dơ, và người...mặn thấy mồ vì gần biển! Châu Đốc có vẻ luộm thuộm vì có nhiều con buôn chợ trời! (Xin quí độc giả nào người ở những địa phương này bỏ qua cho những phê phán phạm thượng và bất công này.)

Cho đến ngày chọn LX, tôi chưa hề đi xuống Miền Tây lần nào; ngay Mũi Tàu Phú Lâm tôi cũng chưa đặt chân tới! Trước đó tôi chỉ biết rằng LX là quê của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ; thành phố này vì thế được “dựa hơi” rất nhiều. Chẳng hạn như tôi nghe nói một trong nhiều công trình nhằm hiện đại hoá quê mình mà Phó Tổng Thống đã thực hiện trong thời gian tại chức là việc thiết lập nhà máy lọc nước tối tân nhất Miền Tây vào thời đó. Quả thật nước máy ở đây tốt thiệt—ít ra giặt quần áo trắng không bị vàng như ở Saigon.

Ngoài ra, trong lúc ngồi chờ đến lượt mình lên chọn nhiệm sở, tôi còn nghe nhiều người nói tốt về LX. Nào là thành phố mới, đẹp, sạch; nào là thị xã xây dựng có qui củ: khu hành chánh và khu thương mại riêng biệt, cách nhau bằng “giòng An Giang trong xanh bóng mát”; nào là trường Thoại Ngọc Hầu (TNH) có nhiều nữ sinh đẹp như tiên! Nhưng có lẽ điều tôi để ý nhiều nhứt lúc ấy là LX rất an ninh, vì đây là đất của đạo Hoà Hảo và tín đồ đạo này rất kị vi-xi, nên vùng này không khi nào bị con cháu Bác quấy rầy.

Tất cả những lời bàn hay nói tốt đó, cộng với bầu nhiệt huyết của người thầy giáo mới ra trường, hăng say với lý tưởng phục vụ, không muốn “ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn,” khiến tôi cùng hai người bạn khác không ngần ngại chọn ngay LX, mặc dù còn một vài địa điểm khác gần Saigon hơn chưa có người chọn.

Chúng tôi đi xe chuyền từng đoạn xuống LX, như lời một người thường đi tuyến đường này khuyên nhủ. Ngồi trên xe chạy, tôi mới được thấy lần đầu sự trù phú của Miền Tây mà bấy lâu nay tôi chỉ nghe nói hoặc thấy trong hình ảnh, sách vở—những cánh đồng lúa xanh rì bát ngát, những nhánh sông bao la đầy phù sa, đâu đâu cũng cho tôi cái nhìn thực tế về nếp sinh hoạt kinh tế nhộn nhịp, phong phú và đa dạng của người dân miền Nam hiền hoà.

Hai bên bờ Bắc Mỹ Thuận hay Bắc Vàm Cống là hàng quán đủ loại đủ cỡ, phục vụ mọi nhu cầu và thích hợp với mọi túi tiền của hành khách đợi phà.Tại đây người ta thấy bày bán mọi thành quả lao động của con người lấy ra từ ruộng vườn sông rạch; từ rau cỏ, hoa quả, chim chóc, cá tôm,..., tất cả đều rất nhiều, rất đa dạng và rất hấp dẫn khi thưởng thức hay ngắm nhìn.

 Không chỗ nào tôi đi qua có dấu vết của chiến tranh, chỉ có chăng là những đồn lính canh dưới chân vô số cầu lớn nhỏ dọc theo quốc lộ, nhưng tại đây sự sinh hoạt của binh sĩ nhìn từ xe cũng rất hiền hoà và bình an. Những trận đụng độ, giao tranh với vi-ximà tôi đọc trên báo chí có lẽ chỉ xảy ra trong xa hoặc về đêm. Có những lần xe đò phải ngừng giữa đường vì “con cháu Bác” đắp mô. Hành khách trên xe chỉ bàn tán sơ sơ, rồi bình tĩnh ngồi chờ và nói chuyện làm ăn buôn bán. Họ có lẽ đã quá quen cảnh quấy rối phá hoại này của địch nên không tỏ vẻ hoảng sợ nhốn nháo trong khi quân ta đi phá mô để lập lại lưu thông.

Chúng tôi xuống đến nơi khoảng gần 2 giờ chiều. Chân ướt chân ráo, chúng tôi lần đầu tiên xa nhà, đặt chân xuống một nơi xa lạ, còn mải ngắm nhìn phố xá mới mẻ thì một người đề nghị phải đi tìm chỗ nghỉ để hành lý, rồi còn trình diện nhiệm sở trước khi hết giờ làm việc.

Khách sạn Kim Tinh có mặt thật đúng chỗ và đúng lúc—vì gần ngay bến xe. Khách sạn trông bề ngoài cũng khá mới mẻ và sạch sẽ. Đêm hôm đó chúng tôi được chứng kiến cảnh sinh hoạt tấp nập nhưng ì xèo của chị em tangay trong khách sạn. Tiếng gọi nhau, tiếng trả giá, tiếng kỳ kèo kèm theo tiếng chửi thề, tất cả tạo nên một bi kịch xã hội, làm chúng tôi cũng khó ngủ ghê—thầy giáo trẻ người non dạ nào đã biết cuộc sống sinh động về đêm của một lớp người vừa đáng thương vừa...nên yêu...thử này!

Chúng tôi vào đăng ký và tắm rửa, và rồi ăn mặc chỉnh tề đi trình diện. Vì không biết đường đến trường TNH, nên chúng tôi phải nhờ đến một anh lái xe lôi đạpđậu ngay bên cạnh khách sạn. Cách di chuyển này rất lạ lẫm đối với chúng tôi là những người chỉ quen nhìn chiếc xích-lôđạp ở Saigon. Thấy anh xe lôi người nhỏ nhắn, có vẻ không mấy khoẻ mạnh, mấy anh em chúng tôi rất e ngại leo lên cái thùng sau chiếc xe đạp để anh...lôi. Nhưng anh trấn an chúng tôi, bảo rằng xe này chở ba bốn người là thường và anh đủ sức...đạp.

Khi lên dốc cầu Hoàng Diệu, anh xe lôi phải cong lưng chổng khu ngay trước mặt chúng tôi, cố sức đạp để lôigánh nặng lên cầu. Nhìn hình ảnh không những không đẹp mắt mà còn bất nhân này, tôi cảm thấy tội lỗi. Không đắn đo, tôi nhẩy xuống, với hy vọng chiếc xe nhẹ bớt. Nhưng bất hạnh thay, vì đà xe chạy cũng như vì vướng cái vè xe, tôi té chúi người, chống tay xuống đường. Tôi gượng đứng dậy ngay, phủi bụi quần áo và đi bộ luôn đến truờng dưới dốc cầu. Khỏi cần ai nói, tôi cũng biết lúc ấy chắc mặt mũi tôi trông quê lắm. Vừa đi tôi vừa rủa thầm: “Đồ...xe lôi! Nếu biết trường gần xịt như thế này, ta đâu có để mi lôi mi kéo làm gì? Mém chút nữa ta bị lỗ mũi ăn trầu, mi thấy chưa?”

Trường trung học công lập TNH thật đồ sộ, gồm 3 dãy lầu đâu mặt nhau, bao lấy sân cỏ xanh tươi rộng lớn mà ở chính giữa là cột cờ cao nghệu. Bên trái cổng ra vào là dãy nhà trệt mà nếu dài hơn một chút nữa thì nó hợp với ba dãy kia thành một hình vuông gần như hoàn chỉnh, có cột cờ là tâm. Nhìn trường học to lớn, tôi thầm nghĩ: “Chao ơi! Mình mới ra trường mà được dạy ở ngôi trường cỡ bự này, đã dữ đa!” với chút kiêu hãnh sung sướng trong lòng.

Chúng tôi không được ra mắt Hiệu Trưởng, hoặc Giám Học, bởi vì niên học chưa bắt đầu chính thức, mà chỉ được gặp ông Trưởng phòng Hành Chánh. Sau khi chúng tôi chào hỏi và trình lệnh bổ nhiệm, ông cho biết rằng chúng tôi chính thức là giáo sư của trường TNH kể từ bữa đó, đồng thời cho phép chúng tôi trở về Saigon một tuần để thu xếp việc gia đình, rồi xuống LX ở luôn, trước khi niên học bắt đầu vào đầu tháng 9-1965.

Một tuần lễ sau chúng tôi lại có mặt ở LX. Tất nhiên lần này chúng tôi không thể đến khách sạn Kim Tinh như lần trước, mà phải tìm chỗ nào thuê “đặng ở luông, hổng dìanữa,” như lời ông Giám Học. Do bạn bè giới thiệu, chúng tôi thuê được nguyên tầng trên của hiệu cơm chay Hoà Bình ở đường Trương Vĩnh Ký. Vì thế chúng tôi được bạn bè và học trò đặt tên là nhóm Hoà Bình để phân biệt với nhóm Tự Do của những đồng nghiệp ở đường Tự Do.

Niên học mới bắt đầu như đã được thông báo. Tôi được xếp dạy hai lớp đệ nhứt sinh ngữ hai, hai lớp đệ tam và hai lớp đệ thất sinh ngữ một. Trừ hai lớp đệ nhứt có nam nữ học chung, còn những lớp kia, nam nữ học riêng. Việc dạy sinh ngữ cho những cấp lớp này không có gì làm tôi phải lo ngại, bởi vì tôi có thể nói thẳng mà không sợ bị phê phán là quá tự cao rằng những kiến thức chuyên môn của tôi lúc ấy đã vượt xa những gì chứa trong bộ sách giáo khoa English for Today sử dụng vào thời điểm đó.

Nhờ nói lưu loát sinh ngữ mình dạy, đồng thời áp dụng những phương pháp mới nhứt lúc đó, và nhứt là nhờ nhiệt tình của một thầy giáo trẻ mới ra trường, sau này tôi được biết học sinh nam nữ lớn nhỏ đều có vẻ nể tôi lắm. Đây là điểm làm tôi rất phấn khởi hồ hởi, và sung sướng mỗi khi nhớ lại.

Trong những ngày tháng đầu trong nghề, cách xưng hô giữa tôi với các nữ sinh ở các lớp đệ nhị cấp cũng làm cho tôi phân vân không ít. Tôi gọi học sinh bằng chị, nghe có vẻ...già và kém thân mật, bằng emthì trẻ trung và gần gũi hơn, nhưng mà...kỳ thấy mồ! Còn học sinh thì gọi tôi bằng thầy, có người xưng em, và cũng có người xưng con—ôi chao, tôi độc thân mần răng đã có con! Sau đó tôi phải làm một cuộc “trưng cầu dân ý” trong lớp về vấn đề này, và đa số đồng ý với lối xưng hô thầy, em. Thầy giáo trẻ người non tính mới ra trường, đứng trước nữ sinh lớn...xác gần bằng mình còn gung gung, thường hay có những cái lẩm cẩm như vậy đó!

 Không biết vô tình hay cố ý mà ông Giám Học xếp tôi làm giáo sư hướng dẫn lớp đệ tam nữ sinh. Học sinh lớp này cô nào cô nấy xinh như mộng đẹp như mơ, với tuổi đời chẳng kém tuổi tôi bao nhiêu—lúc ấy tôi mới hăm ! Nhìn những cô học trò tươi mátnhư thế, ông thầy trẻ tuổi nào không cảm thấy bối rối xao xuyến trong lòng? “A, đây chính là mầm mống của sự khó dìa đây! Mình phải cẩn thận, không khéo thì vỡ mặt như chơi!” tôi nghĩ bụng.

Bản thân tôi không đặc biệt chú ý đến cô nào, bởi vì tất cả đều “mười phân vẹn mười.” Nhưng thực tình mà nói, tôi nghĩ rằng thầy giáo mà “có gì” với học trò nữ của mình thì khó “hành nghề” lắm, không khéo “mất dạy” như chơi, và có thể phải vác chiếu ra tòa nữa. Vả lại, tôi không mấy tin tưởng nơi bề ngoài chẳng chịu ăn ảnh của mình, và vì thế chắc tôi khó có thể lọt vào mắt...đen của ai đó.

Ngoài ra, nếu nói năng hay hành động không mô phạm, tôi có thể bị đánh giá thấp, khiến giới nhà giáo phải mất mặt bầu cua, đồng thời tôi có thể phải mang trong người quả tim bể khó hàn gắn khi mới ở tuổi hăm. Tâm trạng đó làm tôi lúc nào cũng ở “thế thủ,” chờ “đối phương” tấn công trước.

Trong thời gian tôi làm giáo sư hướng dẫn cho lớp này, tôi gặp hai chuyện...buồn. Chuyện đầu tiên là tôi được học sinh “phê bình xây dựng” rằng khi ra câu hỏi có nhiều người giơ tay xin trả lời, tôi thường chỉ gọi một số cô nhứt định trong lớp. Việc này tôi phải công nhận rằng có, song tôi cũng chẳng hiểu tại sao tôi làm như thế. Cũng may là tất cả sự việc đều thanh thiên bạch nhật, và không ai thấy tôi và những nữ sinh liên hệ “đá lông nheo” với nhau. Tất nhiên tôi nhận khuyết điểmhứa khắc phục.

Chuyện thứ hai xảy ra trong cuộc thi làm bánh do nhà trường tổ chức, nhân dịp lễ Hai Bà Trưng. Đề tài là làm một ổ bánh bông lan ngay tại trường, trong thời gian qui định; vật liệu làm bánh, củi lửa, do nhà trường cung cấp; dụng cụ làm bánh cần thiết do học sinh mang tới. Ban giám khảo gồm đại diện Ban Giám Đốc, đại diện các giáo sư, và các cô giáo nữ công gia chánh.

Tuy có mấy lớp nữ dự thi, nhưng tôi nhớ cuối cùng chỉ có hai lớp trình diện bánh trong thời gian qui định: một của lớp tôi, và một của lớp do một nữ giáo sư hướng dẫn. Nhìn hai cái bánh mới làm xong còn trong khuôn, bốc mùi thơm phức, tôi chấm ngay cái của học trò tôi làm, vì bề mặt của nó màu vàng pha nâu lợt chứng tỏ bánh vừa chín tới, và bánh nổi đều đặn trong khuôn. Cái kia về màu sắc cũng không kém, nhưng trên mặt có đôi ba chỗ hình như có óc trâu bên dưới, trông như mặt con trai tới tuổi dậy thì có mụn! “Phen này lớp của mình giựt giải là cái chắc. Mình cũng tự hào lắm chứ, mặc dù mình chỉ đứng ngắm các cô học trò xinh đẹp làm bếp. Cô nào cô nấy má đỏ môi hồng, trông dễ ghét hớt biếc!” tôi nghĩ bụng và cảm thấy rất phấn khởi.

Tuy nhiên, kết quả không như ý nghĩ lạc quan ấy của tôi, bởi vì bánh của lớp kia được chấm giải nhứt. Khi nghe tuyên bố kết quả xong, mấy cô học trò của tôi tức quá, bật khóc trong lúc phân trần cùng tôi. Nhìn học trò mình mắt đỏ hoe, một vài giọt nước mắt trong như kim cương còn chưa chịu rơi xuống ngay, cứ từ từ lăn trên gò má đo đỏ vì lửa bếp, hồng hồng vì tức giận và hây hây vì mắc cở khóc trước mặt tôi, tôi muốn cầm lòng không đậu, cảm thấy vừa xót xa vừa xao xuyến. Ý nghĩ “Sao học trò của mình hôm nay trông...dễ thương, đáng yêu hơn mọi ngày vô cùng” hiện ra trong trí tôi, không sao dập tắt được! Trước tình cảnh bối rối này tôi chẳng biết làm gì hơn là nói một câu an ủi vừa vô thưởng vô phạt vừa vô duyên, “Mấy...em! Thua keo này ta bày keo khác! Lo gì!”

Sau đó tôi được biết lớp của tôi bị chấm điểm kém lớp kia vì chỗ làm bếp hơi luộm thuộm: củi, than lung tung trên sàn nhà. Có lẽ vì chỉ lo sao cho bánh chín kịp giờ qui định mà các cô quên làm vệ sinh bếp núc là điều ban giám khảo có quan tâm.

Nhưng bù lại mấy chuyện buồn này, tôi có tới hai ba điểm...nổi! Nhóm Hoà Bình chúng tôi đi dạy học luôn luôn ăn mặc rất chỉnh tề: sơ-mi, ca-vát, áo bỏ trong quần, đi giày, không như một số bạn đồng nghiệp tại trường: áo bỏ ngoài, đi dép lẹp xẹp. Không biết việc chúng tôi ăn mặc...điệu như thế có tạo ấn tượng gì đẹp nơi học trò TNH hay không, nhưng ít ra nó cũng cho chúng tôi cái cảm tưởng rằng mình trọng...học sinh! Một cái nổi khác là việc chúng tôi sắm mỗi người một cái dù đen che nắng chắn mưa khi đi dạy hoặc đi ăn...cơm tháng. Nổi là vì ở đây thường thường chỉ có phái nữ mới che dù, và thường là dù màu, còn phái nam thì chỉ dân cỡ “thất thập cổ lai hi” mới đi...ô. Cho nên cảnh mấy ông giáo sư che dù đen đi ngời ngời ngoài đường phố, trông hơi lạ con mắt. Giá chúng tôi khăn đóng áo the giày hàm ếch và che dù, có lẽ trông đỡ...nực gà hơn.

Riêng bản thân tôi còn có cái nổi mà vì nó chút xíu nữa tôi sống thì bị “thân tàn” mà chết thì làm “ma dại!” Số là có nhiều hôm ngoài giờ dạy học đi chơi phố, tôi không mặc quần dài bình thường mà mặc quần so-ọclưng chừng (Bermuda shorts). Hình ảnh một thanh niên (!) mặc sơ-mi ca-rôbỏ trong quần cụt lưng chừng, tay cầm ô...tàu (dù do Hồng Kông sản xuất), chân đi giày tây (do hãng Bata làm), ở đây trông chướng mắt thật, nhứt là ở một nơi mà tôi biết trước đây việc một nữ sinh đầu tiên mặc áo đầm đi phố đã khiến cả thành phố xôn xao bàn tán phê phán!

Vậy mà tôi vẫn tỉnh queo trong bộ trang phục như thế, đi diễu không những ở LX mà còn tận Châu Đốc nữa! Chính cách ăn mặc này của tôi đã khiến một số nam sinh ngứa mắt, ngứa đến độ có ý định “xin tí huyết” của tôi làm thuốc! Nhưng nhờ có ông thầy thể dục thể thao của trường can ngăn, mấy chàng kia mới hết ngứa mà bỏ qua cho. Chuyện này do chính ông thầy xì-potốt bụng kể cho tôi biết; song ông không cho biết số nam sinh đó học tại TNH hay ở mấy trường tư mà tôi có giờ dạy.Nghe xong chuyện tôi giật mình lo sợ, lắp bắp nói với vị ân nhân: “Trân trọng cảm ơn thầy! Nếu không có thầy, chắc chiến này tui chớt!” Sau đó tôi không có dịp ăn mặc như thế, vì tôi được gọi nhập ngũ.

Chuyện “hỏi thăm sức khoẻ ông thầy” này, theo tôi nghĩ, có nguyên nhân sâu xa hơn, không phải đơn giản chỉ vì tôi ăn mặc quái gỡ. Đó là dưới cặp mắt dễ bị gai của mấy nam sinh đó, tôi có thể là địch thủ đáng gờm của họ trước mấy cô học trò xinh đẹp của LX. Nếu quả là họ có ý nghĩ đó thì họ đã lo quá xa, bởi vì trong hai niên học phục vụ tại đây tôi không “theo” cô nào cả, mặc dù có rất nhiều “đối tượng” rất đáng đi theo để lải nhải Ai lơ-vơ du! Như tôi đã viết đâu đó ở trên, tôi rất thiếu tự tin về mục “tán học trò,” bởi vì tôi không có gan, mà chỉ có phổi—tôi chẳng đi bán cháo phổi hàng ngày là gì?

Trong những lúc rảnh rỗi ở nhà nói chuyện gẫu với nhau, mấy bạn đồng nghiệp của tôi thường hay “chấm” cô học trò này hoặc em nữ sinh kia, rồi tự gán ghép cho nhau. Chẳng hạn như ông bạn dạy Việt văn “để ý” một cô khá xinh trong lớp tôi và ông ấy dạy mà tôi hướng dẫn. Chàng có vẻ “si” nàng lắm bởi vì chàng thường hay nhắc đến đối tượng, và khi chúng tôi đùa, “Thôi, để chọn ngày lành tháng tốt làm lễ...an táng cho đôi trẻ!” chàng không phản đối, chỉ chúm chím cười, ra vẻ “các bạn đặt đâu, em ngồi đó.” Không biết đối tượng có đáp lại tình cảm nồng nàn của chàng không mà sau này chàng “ôm cầm sang thuyền khác” và lấy một cô học trò ở trường tư thục Phụng Sự làm dợ và “sau đó hai người sống hạnh phúc mãi mãi bên nhau.”

 Hoặc một ông bạn khác, dạy sinh ngữ như tôi, “chịu đèn” một nữ sinh ở lớp chàng phụ trách. Nhà nàng lại cùng đường với nhà trọ của chúng tôi, nên mỗi lần đi ăn “cơm hàng cháo chợ” chúng tôi đều phải đi ngang. Khi đi qua thế nào chàng cũng liếc vào xem có thấy bóng dáng giai nhân không. Thường thì ít khi chàng thấy người đẹp mà chỉ thấy ông thân sinh nghiêm nghị đứng trước cửa. Những lúc ấy chàng chỉ có nước “đàng trước, bước!” không dám ngó ngang nhìn dọc gì nữa. Chàng này sau đó đổi về Saigon để “anh về lấy vợ, thế là xong!

Riêng tôi không tỏ ý “yêu” cô nào cả, chỉ biểu đồng tình với các bạn mình về sự lựa chọn của họ, nên mấy bạn tôi không có ai để mà “gả” cho tôi. Vậy mà tôi cũng có một “cô học trò ruột!” Cô bé là học trò giỏi trong lớp tôi hướng dẫn, cuối năm được lãnh thưởng hạng nhứt, và có lẽ vì vậy mà tôi chú ý đến cô chăng? Hay vì trong cặp mắt đen láy kia mỗi lần nhìn tôi hình như có cái gì như ngầm nói: “Thầy cũng đáng ghét lắm đó!”

Tôi còn nhớ cuối năm học 66-67, tôi nhận được lệnh nhập ngũ, như tất cả công chức có cùng năm sinh vào thời điểm đó. Hôm nhận giấy gọi, tôi đang làm giám thị trong kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt tại trường. Cầm mảnh giấy có tên mình và khoá sĩ quan trừ bị Thủ Đức, tôi cảm thấy buồn bâng khuâng, hẳn là vì thấy mình sắp sửa phải xa nơi mà mình vừa mới quen cảnh biết người, và biết đâu mai sau, mình sẽ khó dìa.

 Không hiểu sao khi đến lượt tôi coi thi tại phòng có cô bé, tôi đưa lệnh gọi cho cô xem, đồng thời nói nhỏ cho cô biết nội dung mảnh giấy. Cô học sinh đệ nhị ngẩng lên nhìn tôi với cặp mắt mà trong đó tôi thoáng nhận ra nét sửng sốt không vui.

 Bây giờ nghĩ lại, tôi tự trách sao lại vô duyên như vậy, vì rủi cô quả thật có cảm tình khác thường với tôi, sự nhập ngũ của tôi hẳn phải có ảnh hưởng không hay đến đầu óc của cô trong lúc đang cần phải tập trung vào bài thi. Rất may kết quả kỳ thi của cô bé ghi vào học bạ rất tốt, và năm đó cô đậu ngay tú tài I.

Trước ngày tôi từ giã LX luôn—từ đây khó có dịp trở lại, vì “đời lính xa nhà, rày đây mai đó,” cô bé cùng người bạn rất thân lại thăm tôi tại nhà trọ vào buổi tối. Việc cô bé đi “hai mình” hẳn là muốn tránh tiếng thị phi sau này khi anh đi rồi. Hôm đó mấy ông bạn đồng nghiệp cùng nhà trọ cũng tự nguyện đi đàng nào mất tiêu, chỉ còn ba đứa tôi trên tầng lầu rộng thênh thang.

Ba chúng tôi ôn lại chuyện cũ trong hai niên học vừa qua, và trao đổi những dự tính tương lai. Trong lúc nói chuyện, tôi nhìn cô bé và nhận thấy hình như trong cặp mắt to đen đó có chứa điều gì khang khác đầy cảm mến thương yêu chỉ dành cho tôi trong chỗ riêng tư tay...ba như bây giờ. Cảm nhận này khiến tôi xao xuyến và đâm ra bối rối không biết phải nói gì hoặc làm gì. Ý tưởng nắm tay cô bé chợt hiện ra trong đầu tôi, nhưng tôi chế ngự nó ngay, không thực hiện. Có lẽ tôi cảm thấy kỳ vì có người khác chứng kiến chăng? Tôi không hiểu cô bé có thấy gì lạ trong cặp mắt tôi nhìn cô đăm đăm trong những lúc như thế chăng?

Tôi nghĩ chắc là cô bé muốn biểu lộ tình cảm tế nhị sâu kín đối với tôi, khi cô hát tặng tôi một bài khá phổ thông thời bấy giờ. Tiếng hát trong veo vẻo, cao vời vợi, vừa đủ nghe, tuy không nhạc đệm, nhưng nghe rất xúc động não nề. Trong cặp mắt hột nhãn kia, long lanh sau hàng lông mi cong cong, tôi thấy cả một bầu trời trìu mến lưu luyến chân tình dành cho tôi mà tôi không biết, và cũng không thể, làm gì để đáp lại, dù tôi rất muốn. Và cái miệng kia, với đôi môi mọng đỏ khép mở theo lời bài hát, chao ôi, làm tôi chới với, choáng váng như vừa uống một hớp rượu mạnh khi phải đánh vật với lòng mình và chế ngự những thôi thúc tình cảm ào ào xuất hiện. Phải chi lúc ấy chỉ có hai đứa mình!

 Gần ba chục năm sau, tại phương trời xa xôi lạnh lẽo này, vào một buổi “chiều chúa nhựt buồn, nằm trong căn gác đìu hiu,” tôi bỗng nghe bài hát này văng vẳng từ nhà ai vọng lại. Tiếng hát đánh thức bó dây thần kinh mà tôi tưởng đã nằm ngủ yên ở ngăn bộ nhớ trong đầu bao nhiêu năm nay. Tôi nghe như có một luồng adrenalin chạy khắp toàn thân khi nhỏm dạy, vểnh tai lắng nghe. “Ngày mai khi anh xa kinh đô, em nhớ...” đưa tôi trở về “...dĩ vãng mộng .”

 Tôi nhớ cặp mắt ươn ướt nai tơ nhìn tôi như muốn thì thầm điều gì thật thân mật và gần gũi, không tiện nói ra lúc ấy, và hàng mi khép lại e thẹn mỗi khi chạm phải tia nhìn chắc là rạt rào yêu mến và thông hiểu của tôi. Và nhứt là đôi môi trinh nguyên mời chào, mấp máy: “Thương anh thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi, xa nhau...” Ôi chao, kỷ niệm đầu đời êm đềm “nghìn năm chưa dễ đã ai quên”!

Ngoài trời tối đen; hai cô tỏ ý muốn ra về. Đứng trước cô bé tôi muốn bắt tay từ giã kiểu phương Tây, nhưng cảm thấy ngượng nghịu không dám, và chỉ nói được mấy lời chúc lành đơn giản khuôn mẫu. Khi chia tay, chúng tôi trao đổi địa chỉ và hứa liên lạc thư từ. Tôi đưa hai cô học trò xuống cầu thang ra cửa, và rồi trở lên ngay.

Cảm thấy cô đơn và lạc lỏng khi còn lại một mình trong căn phòng rất ít đồ đạc của chúng tôi, tôi ra bao lơn đứng nhìn người đi lại dưới đường. Đây là việc chúng tôi vẫn thường làm sau khi đi ăn cơm tối về, hoặc trước khi sửa soạn đi ngủ.

Đường phố vắng tanh. Trong tầm mắt, tôi còn thấy bóng của hai cô ngả dài sau lưng. Hai vệt đen in trên mặt đường từ từ ngắn dần khi họ đến gần ngọn đèn đường đầu tiên từ nhà tôi ra. “Một trong hai bóng kia sẽ là ‘bóng hồng’ đầu tiên trong trái tim mình chăng?” tôi lẩm bẩm trong khi mắt còn theo hai cái bóng ra khỏi vùng ánh sáng, và rồi hoà lẫn vào bóng đêm hun hút.

Sau đó tôi nhập trường Bộ Binh Thủ Đức. Giữ lời hứa, tôi viết thư cho cô bé ngay sau khi biết được khu bưu chính của quân trường. Nội dung của những lá thư qua lại giữa chúng tôi sau đó không có gì đặc biệt, chỉ là những chuyện có thể coi như của hai người bạn thân viết cho nhau. Tôi viết về đời sống quân trường; cô bé kể chuyện LX. Đây không thể coi là những thư tình giữa “em gái hậu phương” và “anh trai tiền tuyến”, bởi vì tôi cũng như cô bé vẫn giữ cách xưng hô “tôi, thầy, em” từ trước đến giờ, ở ngoài đời cũng như trong thư từ, và chưa bao giờ viết cho nhau bằng những lời lẽ mà người ngoài đọc có thể cho là của hai kẻ đang in lo-ve!

Trong thời gian này, bài hát “Hoa Trinh Nữ” của Trần Thiện Thanh đang phổ biến, đi đâu cũng nghe người ta hát. Tôi thấy trong bài có mấy câu cũng hay hay, và không hiểu sao, tôi hay nghêu ngao câu “Tôi chỉ là người lính xa nhà, thấy hoa nhớ người yêu vắng xa!”Và hình như tôi có đưa câu này vào một cái thơ nào đó gởi cho cô bé nữa.

Biến cố Tết Mậu Thân làm gián đoạn thơ từ của chúng tôi một thời gian dài, cho đến khi tôi ra trường Thủ Đức, khoảng giữa năm 1968. Về đơn vị mới ngay tại Saigon, tôi bắt liên lạc với cô bé, song kể từ đây tôi ít viết thư đi, bởi vì tôi không còn nhiều thời gian rảnh rỗi, ngồi thoải mái suy nghĩ viết thư như ở quân trường trước đó.

Trụ sở đơn vị mới của tôi bị tàn phá nặng nề trong vụ Tết vừa qua nên phòng ốc ngổn ngang bừa bãi, cần phải xây dựng và ổn định lại; khoá sinh về học đông do nhu cầu tăng vọt lúc đó; lính tráng cắm trại “chăm phần chăm, em ơi” liên tục. Tất cả những trách nhiệm mới này làm tôi mệt nhoài, không còn thiết làm gì nữa cả.

Tôi không nhớ rõ chúng tôi thực sự chấm dứt viết thư cho nhau vào lúc nào, nhưng tôi nhớ cô bé có ghé nhà tôi hỏi thăm đôi ba lần sau đó mỗi khi có dịp đi Saigon chơi, hoặc gởi thiệp chúc Tết mỗi năm—tức là chúng tôi vẫn giữ mối liên lạc tình...thầy trò.

Năm năm sau kể từ ngày tôi đi lính, tôi trở lại LX thăm cảnh cũ và...người xưa. Cảnh LX của tôi bây giờ trông đổi khác nhiều: nhiều đường phố đầy ổ gà, lởm chởm đá lót đường—vết tích của trận lụt năm 66. Hàng rào cột xi-măngsát bờ sông ở công viên Nguyễn Du xiêu vẹo đổ nát trong khi cây cảnh không được chăm sóc. Tình hình này có lẽ do chính quyền địa phương dồn mọi nỗ lực để đối phó với chiến tranh lúc đó lan tràn ra nhiều nơi, nên không còn để ý đến việc chăm sóc sửa sang thành phố.

Nhưng người LX có vẻ vẫn xinh đẹp, vẫn duyên dáng như xưa. Nhìn những tà áo trắng của nữ sinh TNH tan trường buổi chiều bay bay trên cầu Hoàng Diệu, tôi không khỏi bồi hồi xúc động nhớ năm nao mình đã từng đứng dưới chân cầu, ngây người ngắm nhìn như bây giờ. Chắc hẳn trong đám học trò đó có đám đệ thất cũ của tôi mà bây giờ đã là những thiếu nữ duyên dáng mỹ miều. Nhưng chắc chắn chẳng ai nhận ra tôi, dù tôi mặc quần áo dân sự.

Sau khi người bạn lấy dợLX cho biết cô bé vẫn ở chỗ cũ, tôi xem lại địa chỉ nhà và tìm đến thăm. Đứng trước cổng nhà và lưỡng lự một giây, tôi bước đại qua cổng để mở và đi thẳng vào trong sân. Tôi lấy làm lạ là không thấy ai trong nhà mà cổng lại mở toang và chẳng có chó giữ nhà—đây là một điểm đáng yêu khác của LX thanh bình. Tôi đi qua sân ra phía sau nhà và cũng chẳng thấy ai.

Sau khi đánh tiếng hỏi và chẳng được trả lời, tôi ngần ngừ một chút rồi ra về. Hôm sau tôi về Saigon, trong lòng cảm thấy như đánh mất cái gì mong manh nhưng quí giá, vì không được gặp lại...bóng hồng xưa!

Năm 1974 tôi nhận được hồng thiệp của cô bé mời xuống LX ăn cưới—lúc này tôi đã có gia đình. Tôi không đi được, chỉ gởi thiệp và quà chúc mừng. Lính tráng không phải muốn xin đi phép là được ngay; hơn nữa, đi phép với lý do ăn cưới học trò cũ có vẻ không chính đáng lắm!

Sau 1975 tôi mới được biết chồng cô bé cũng bị đi học tập cải tạonhư tôi. Khi tôi đã được phóng thích, người chồng vẫn chưa được tự do. Sau đó tôi không có tin tức gì nữa cho đến nay. Tôi đang định nhờ người bạn lập nghiệp tại LX hỏi thăm dùm, nhưng tiếc thay, ông này lại mất mới đây. Tôi coi như mất liên lạc với “học trò ruột” của mình từ đó.

Nếu có ai đó bảo rằng thầy trò chúng tôi “tình trong như đã, mặt ngoài còn e,” tôi không phản đối mà cũng chẳng đồng ý. Ấy là về phần tôi, còn về phía cô bé thì tôi...hổngbiết!

Thực tình mà nói thì, như tôi đã trình bày đâu đó bên trên, tôi rất thiếu tự tin về tài sắc của mình, cho nên tôi khó có thể làm cho “đối tượng” mở cặp mắt đen để mình lọt vào, hay nói khác đi, về cả thể xác lẫn tâm hồn tôi không có gì để hấp dẫn người khác phái. Mãi cho đến khi tôi cưới dợ, tôi đi theo và bắt chước ông TCHYA, và chỉ lọt vào đôi mắt mơ...huyền của mẹ đĩ hiện tại!

Tuy vậy, tôi phải thành thật mà nhận rằng mối liên hệ platonicgiữa tôi và cô bé là một kỷ niệm dễ thương nhứt trong số nhiều kỷ niệm đáng yêu khác trong cuộc đời dạy học ngắn ngủi của tôi ở LX. Nó dễ thương vì nó gợi trong đầu óc chúng tôi những hình ảnh đẹp của nhau khi sự “thân mật” giữa chúng tôi chưa gần đến mức độ để thấy cái xấu của nhau.

Nếu tôi không nhập ngũ và còn tiếp tục dạy học tại TNH thì ai có thể tiên đoán như đinh đóng cột rằng tôi không khó dìa, trong khi lúc nào trước mắt tôi cũng có đầy nữ sinh LX đáng yêu dễ thương? Tôi có ba người bạn cùng khoá xuống dạy tại TNH thì hai người đã “dính,” người thứ ba thuyên chuyển vào niên học thứ nhì không kể, còn lại tôi là thần thánh gì mà cưỡng lại được với người đẹp LX?

 Âu cũng tại diên số! (hai-94)

                                                                             Diligence is the mother of good luck. Benjamin Franklin

3. HÒN NGỌC DIỄN ĐÔNG CÓ GÌ DUI HÔNG CƯNG?

(CHUYỆN Ở SAIGON ĐẦU THẬP NIÊN 90)

Đôi lời dẫn nhập.- Bắt chước đàn anh Liên-xô nay đã rã đám, đảng Vi-xi trong đại hội đảng năm 1986 cũng đề ra chính sách gơ-lát-nót, pê-rêt-tơ-roi-ka, tiếng ta dịch đại khái là cởi mở, đổi mới. Trong những cái cởiđổi đó có mở cửa để nhiệt liệt chào mừng thương nhân ngoại quốc vào thăm dò thị trường VN, rồi bỏ đô-na nàm ăn chung, đôi bên đều có nợi! Phải thành thật mà nói, tại một nước đã nghèo lại mắc cái eo trong bao nhiêu năm dưới sự quản chế của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt, nhờ sử dụng nhuần nhuyễn sự lợi hại của mũi mác lưỡi lê, thị trường của nước có tiếng ba mươi năm nội chiến từng ngàynày hẳn phải có nhiều tiềm năng hấp dẫn thương gia đông bạc cắc.

Lý do của sự hấp dẫn này là hầu hết những gì có đóng góp vào nền kinh tế èo uột ốm yếu của nước đó đều phải xây dựng lại từ đầu: hãng xưởng, máy móc, đường xá, giang cảng, hải cảng, phi cảng, v. v., đều ở tình trạng hồi còn mồ ma già Mác lão Lê! Sự hấp dẫn này đã khiến nhiều đoàn thương gia quốc tế lục tục kéo nhau vào VN tìm cơ hội mần ăn.

Tuy vào đầu năm 1988 nhà nước Cộng Sản có ban hành đạo luật về đầu tư nước ngoài, nhiều thương gia ngoại quốc đã phải khăn gói quả mướp, bỏ của chạy lấy người, khi chạm trán với cách làm ăn theo luật rừng của con cháu Bác Hồ, bởi vì luật đầu tư đó còn nhiều điều cần phải đặt lại cụ thể và thống nhất hơn. Ví dụ như tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, hay ông bảo làm thịt bà bảo để nuôi, rất thường xảy ra—địa phương này chấp thuận, địa phương kia bác bỏ; thành phố đồng ý, trung ương không cho phép, v. v.

Đó là chưa kể đến việc bộ máy hành chánh thư lại chậm chạp, quen làm ăn theo kiểu chờ lệnh trên, hoặc việc khách phải biết thủ tục đầu tiên(!) rồi công việc mới được giải quyết mau lẹ. Những tiêu cực này đã làm nản chí một số không ít thương gia thiện chí muốn tính chuyện đầu tư thực sự nghiêm chỉnh và lâu dài.

Một số khác cố chịu đấm ăn xôibám trụ lại, hy vọng rằng bây giờ ta thả con tép mai mốt đây ta bắt con tôm...càng, khi Hoa-kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận, lúc ấy coi như họ đã có chân đứng vì đã xí chỗ trước! Những thương gia dù bị đấm u đầu sứt trán nhưng viễn thị này bây giờ chỉ làm ăn với tính cách ăn sổi ở thì—ngươi đưa ta vài tạ sắn (khoai mì), ta trả ngươi ít cái đài (radio), sắn trao đài đổi, không sắn không đài—chứ chưa thực sự đầu tư vào dự án nào có chiều sâu đem lợi ích lâu dài mà VN rất cần lúc này để vực nền kinh tế đang ngắc ngoải dậy mà đi, chẳng hạn như xây dựng đường giao thông vận tải, bến cảng, sân bay, v. v.

 Những dự án nặng ký như thế, theo các chức sắc vi-xi, chỉ có anh em chú Sam mới có vốn liếng và khả năng kỹ thuật thực hiện. Nhưng tiếc rằng, cho đến giờ phút này mấy thằng kẻ thù số một của nhân dân tavẫn ngoảnh mặt làm ngơ, bởi vì bố chúng nó chưa cho phép! (Cả Ngố biết có cán bộ nhờ đánh tiếng hỏi xem cái hãng thầu xây cất nổi tiếng Rờ eM Ka của Mỹ có chịu trở lại sửa dùm mấy cái máy ủi đất làm đường đang nằm phơi nắng dầm mưa bao nhiêu năm nay trên bãi đất trống ở Thủ Đức, đồng thời hợp tác kinh doanh không?)

Một mặt tích cực của việc mở cửa xun xoe chào đón khách nước ngoài vào tham quan đất nước của những anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ kế hoạch nhỏ, là sự xuất hiện của vô số kể trường lớp dạy Anh Pháp ngữ tại thành phố Saigon để đáp ứng nhu cầu học ngoại ngữ của cán bộ bố cán bộ con và nhân dân ta ngày một vượt chỉ tiêu. Lý do đưa đến sự nở rộ như nấm gặp mưa của những trung tâm sinh ngữ này là bởi vì hầu như tất cả khách đến chơi đều nói tiếng Hồng-mao hoặc Phá-lang-xa. Ai muốn đi khách ngoại quốc ít ra cũng phải biết dét nô uỳ nôngmới được khách chiếu cố. Do đó, họ phải đi học thôi—không thầy đố mày làm nên, các cụ ta xưa đã nói thế mà!

 Gọi là mặt tích cực vì nó tạo ra một số công ăn việc làm cho những người trước đây dạy sinh ngữ chưa kịp đi theo ôm chân đế quốchoặc những ai có vốn Anh Pháp khá muốn kiếm thêm chút cháo bằng nghề gõ đầu trẻ già lớn bé, giúp họ tăng thu nhập hầu làm cái bụng của họ lép kẹp bấy lâu nay phồng phồng lên một chút. Nói cách khác, con số mấy triệu người thất nghiệp kinh niên hiện tại ở VN được giảm đi một vài...chục!

Những nhà giáo sinh ngữ này bỗng nhiên trở thành có giá, bởi vì một mặt thương nhân cần người giúp việc biết ngoại ngữ, mặt khác nhân dân ta cũng cần thầy dạy họ nói hao-á-dù hoặc com-măng-xà-và. Số cầu tăng vọt, số cung đếm trên đầu ngón tay, mần răng tít-chờ hay pờ-rồ-phét-sơ không đắt như...pi-da hất?

          Chính trong tình huống này mà mấy chuyện đầu cua tai nheo dưới đây xẩy ra. (Bài này được hư cấu trước khi Hoa-kỳ bỏ lệnh cấm vận.)

* * *

        Quí độc giả nào có quan tâm và thường theo dõi tình hình VN hẳn còn nhớ cái Diễn đàn Đầu tư Nước ngoài (Dđ) được tổ chức tại Dinh Độc Lập Saigon (bây giờ gọi là Hội trường Thống Nhất) vào đầu tháng 3-1991. Cả Ngố không biết báo chí bên ni có thí cho Dđ này giòng chữ nào không, song hắn có thấy và có nghe các phương tiện truyền thông của nhà nước vi-xidành rất nhiều thì giờ và giấy mực cho diễn biến này bởi vì, theo báo chí, Dđ này rất quan trọng, có thể làm hạ cơn đói đôMỹ của nước VN đang gặp cảnh túng quẫn giật gấu vá vai, đồng thời làm tăng uy tín vốn đã thấp như chân vịt của nước nghèo mạt rệp này.

Theo các cơ quan nhà nước, Dđ này được sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc (LHQ), hay nói một cách toạc móng heo thẳng ruột ngựalà LHQ cho tiền và cử người đến chỉ bảo chuyên môn, và được sửa soạn rất công phu, tốn cả năm trời (không thấy nói tới tốn bao nhiêu tờ giấy in hình Bác!) Cũng theo báo chí quốc doanh, Dđ đã thu hút mấy trăm thương gia ngoại quốc ghi tên tham dự, và người nào cũng hăm hở háo hức và...hùng hục đâm đầu nhào để bỏ triệu triệu đô Mỹ vào đầu tư tại mảnh đất rừng vàng biển bạc này.

Và dĩ nhiên, sau khi Dđ bế mạc, dân chúng khỏi cần đọc báo nghe đài hoặc xem ti-vi cũng biết Dđ đã thành công mỹ mãn, vượt chỉ tiêu trên đề ra. Nhưng báo Tuổi Trẻlại đăng mấy bài nói về những cái luộm thuộm bê bối trong việc tổ chức một diễn đàn tầm cỡ quốc tế như rứa. Chẳng hạn như việc đưa đón khách đến tham dự. Xe khách đến cổng không được vào vì không có dán dấu hiệu riêng—ban tổ chức có phát đâu mà có! Thế là tay tài xế phải chạy ma-ra-tôngtrên con đường vòng cung dài gần trăm thước từ cổng vào trong xin giấy phép. Khi chạy trở ra đến xe, anh ta mồm thì thở hồng hộc như ngựa thồ lên dốc, mặt thìtái mét như gà bị cắt tiết, nói chẳng ra hơi, nhấm nhẳng như chó cắn ma!

Khi được vào trong rồi, khách lại phải vừa đứng lố nhố như ăn mày cửa Phật ngay cửa, vừa xí xô xí xào tiếng tây tiếng u như bày ong vỡ tổ, bởi vì chẳng có bảng chỉ lối hoặc người dẫn đường. Do cách sắp xếp thiếu khoa học ở chỗ phân phát tài liệu in sẵn, khách lại phải một phen chen lấn, tả đột hữu xung, giành giựt như người Cuốc bên I-rắc tranh nhau bánh mì phát chẩn, mới lấy được một mớ giấy tờ đặc nghẹt những chữ quảng cáo cho những dự án đầu tư hấp dẫn ngon ăn.

Một ông tây mập thù lù, sau khi chụp giựt được mớ giấy, bước ra khỏi đám đông. Với vẻ mặt nhăn nhó như khỉ ăn gừng, người nhễ nhại mồ hôi như tắm, com-lêxốc xếch xộc xệch, ông ngồi phịch xuống một chỗ gần đó, thở phì phò nhưlợn sề sắp đẻ, hỏi chẳng nói gọi chẳng thưa. Sau đó, khi hoàn hồn và được hỏi thăm sức phẻ, ông ta lắc đầu nguây nguẩy, trề môi nhún vai trông rất tây pa-ri-di-en, rồi ông đứng lên đưa hai tay lên trời, miệng lẩm bẩm cái gì chẳng ai nghe rõ. Có lẽ ông cầu Chúa Giê-su hay đấng A-la xuống cứu vớt!

Đã vậy, khách lại phải chạy đôn chạy đáo, đổ mồ hôi sôi nước mắt, đi tìm chỗ của mình phải đến ngồi, trong khi những người có nhiệm vụ thì tụm năm túm ba nói chuyện với nhau nhưkhướu mới học nói, hoặc có thái độ bình chân như vại,ai chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.

Đấy, đại khái đó là những chuyện bôi bác về Dđ mà báo chí có đề cập để ban tổ chức rút kinh nghiệm. (Dĩ nhiên, Tuổi Trẻ không đăng y chang như trên; phần này do Cả Ngố hư cấu, dựa vào những dữ kiện cho sẵn).

Tuy vậy, ở bài này hắn chỉ muốn nói đến một chuyện báo chí không đăng và người ngoài khó mà biết được nếu không có đôi chút liên can đến Dđ. Đó là chuyện đi làm thông ngôn (vi-xi gọi là phiên dịch) cho Dđ này.

Trước ngày Dđ khai mạc độ hai ba tháng, hắn (với tư cách cộng tác viên khế ước) và một số anh chị em cùng nhiệm sở được ban giám đốc giới thiệu đi dự một cuộc họp kéo dài nguyên ngày do ban tổ chức Dđ triệu tập để bàn luận về công tác thông ngôn phiên dịch. Chủ toạ buổi họp là một ông rau muống và một ông người ngoại quốc đại diện cho UNDP (ông này là một trong hai đại diện do LHQ gởi đến để trực tiếp giúp đỡ VN tổ chức Dđ).

 Sau những thủ tục khai mạc, trong đó có việc yêu cầu những người tham dự kê khai lý lịch cùng kinh nghiệm thông ngôn, ông người ta, bằng Anh ngữ xứ căng-cu-rurất hay với giọng đầy tự tin và kẻ cả, cho biết đại khái là ban tổ chức cần nhân sự tại chỗ ở miền Nam, vì đem người từ miền Bắc vào tốn kém; vả lại, số lượng có đem vào cũng không đủ đáp ứng nhu cầu. Ông người tây tiếp đó nói thêm về việc có liên quan đến công tác thông ngôn phiên dịch trong Dđ quan trọng này.

Tất cả những người tham dự (do nhiều nơi khác nhau giới thiệu đến) sau đó được yêu cầu tự giới thiệu bằng Anh ngữ—rõ ràng người ta muốn thử tài khua môi múa mỏ bằng ngoại ngữ của bọn hắn. Nói chung, bọn hắn ai cũng có khả lăng cả. Đến phần linh tinh thắc mắc, có một người không cùng nhiệm sở với Cả Ngố nêu lên vấn đề thù lao. Ông người ta, một lần nữa cười cười nói nói, cho biết đại ý chuyện ấy không có gì phải đặt thành vấn đề, và trấn an mọi người, “Cứ an tâm.”

Trước khi bế mạc, chủ toạ cho biết rằng trước ngày Dđ thực sự khai mạc sẽ có một buổi họp nữa vào cuối tháng 2-91, để thông báo thêm chi tiết cũng như phân công cụ thể. Nhưng từ đó cho đến ngày Dđ khai mạc, chẳng ai trong cơ quan hắn được gọi đi họp lại hoặc được gọi đi làm thông dịch viên cả.

Cả phía ban tổ chức lẫn cơ quan giới thiệu không nơi nào cho một lời giải thích. Riêng Cả Ngố chẳng cần giải thích giải ưa gì cả cũng biết lý do là gì rồi, bởi vì bản thân hắn đã bị vố (hay vồ ?) này không phải “một lần rồi thôi.” Lý do rất đơn giản: hắn cùng hầu hết các bạn cùng nhiệm sở được giới thiệu đi công tác đều có dính líu ít nhiều tới chính quyền VNCH, tức là những người “có lý lịch không tốt”, và “không thuộc phe ta.”

Mặc dù sau đó một người bạn của Cả Ngố là chỗ quen biết với ông người ta, cho biết ông này bảo rằng lý do không gọi là vì cơ quan của hắn đòi nhiều tiền công quá, ban tổ chức không có tiền trả, nhưng hắn không tin đó là sự thật. Đó chẳng qua là nói quanh nói co cho xong chuyện. Như vậy hẳn là ban tổ chức đem người ngoài Bắc vào đỡ tốn kém hơn—dân chúng ngoài ấy đói kém hơn, người khôn của khó hơn, mật ít ruồi nhiều hơn, cho nên người đi làm đòi ít lương hơn?

Thực ra, lý do tiền bạc không có chỗ nào bấu víu để đứng vững, bởi vì Cả Ngố biết chắc rằng trong mục chi phí tổ chức có qui định ngân khoản để thanh toán cho dịch vụ thông phiên dịch mà bất cứ hội nghị quốc tế nào cũng có dự trù. Chi phí này thường được tính bằng đôMỹ, và nhà nước dưới chiêu bài “xây dựng đất nước” không bao giờ trả như đã được ghi.Về việc này thì thực tế đau thương của những người gọi là đi “hợp tác lao động” tại các nước cộng sản trước kia cho thấy rất rõ.

Vả lại, vì lương trả người VN làm cho tổ chức nước ngoài được tính bằng tiền “cụ Hồ”, cho nên dù có được trả theo con số đã được con cháu Bác Đi-Dép-Lốp chấm mút mất phần lớn, người làm công vẫn được lãnh kha khá khi tính ra tiền VN, so với lương của những công nhân viên chức nhà nước (hối suất lúc ấy là 1 đôđổi được trên dưới 8 ngàn đồng VN). Chính sự khác biệt này khiến những người có trách nhiệm an tâm và có cớ để ăn bớt ăn xén, không sợ người hưởng thụ kêu ca gì, bởi vì những nạn nhân của tệ trạng “người bóc lột người” vẫn thấy mình được ưu đãi hơn công nhân ăn lương nội địa.

Ngoài ra, Cả Ngố còn biết trong một chương trình huấn luyện Anh ngữ cho người VN do LHQ tài trợ, lương thầy giáo ghi là 16 đô/giờ, nhưng nhà nước đưa ông thầy 10 ngàn đồng, tức là hơn 1 đôchút xíu. Dù nhận được số tiền bị ăn đầu đớp đuôi như vậy, ông thầy vẫn mừng húm, vì thấy lương giờ của mình còn cao hơn nhiều so với lương những bạn đồng nghiệp không biết “ai can du, xin du tha mi” là gì—những người này lương giờ tối đa không quá hai ngàn!

Con số sai biệt, trên dưới 15 đô, đi đàng nào mất hút, biệt tin tăm cá. Có lẽ chỉ có lão Mác già Lê hoặc tay Hồ ở nơi chín suối mới biết được nó ở nơi mô! Không biết có phải các cụ ta gọi như thế là ăn cướp cơm chim không nhỉ?

Nhưng mà thôi, nói mãi về tiền bạc người ta lại bảo trâu buộc ghét trâu ăn. Thực tình mà nói, Ca Ngố cũng như các bạn có liên can trong vụ này không ai hoặc chưa ai chết đói hay thất nghiệp lúc ấy mà cần đi làm thông ngôn để kiếm thêm chút cháo lót dạ. Nhưng cái kỳ quặc quái đản ở đây là tại sao người ta cứ làm ra vẻ không phân biệt ta địch, bằng cách yêu cầu đi họp đi hành, mất toi hai buổi, lỗ bữa cày mà có được ăn bữa giỗ nào đâu?

Hắn xin nói rõ thêm chỗ này: ai được giới thiệu đi mà không nhận rất có thể bị phê “thiếu tinh thần hợp tác,” hoặc nặng hơn nữa, “chống đối ngầm”—những lời phê lót đường đến trại tập trung cải tạo ngày nào không biết! Tiện đây, hắn cũng xin nói thêm một chút nữa.

Việc kỳ thị ta địch này xuất hiện mọi chỗ mọi nơi, nhất là trong các cuộc thi tuyển học sinh sinh viên vào các trường đại học, trường chuyên môn hay trung tâm huấn luyện. Chẳng thế mà dân Saigon đã an ủi những ai chẳng may trượt vỏ chuối bằng câu: “học tài thi lý lịch!” Sinh viên đi thi muốn được nhận đơn phải có lý lịch “sạch”, tức là không có tông chi họ hàng dính dáng gì đến chính phủ trước 1975. Nếu người nộp đơn còn là con đảng viên cháu cán bộ thì khỏi đi thi cũng đậu. [Có một học sinh con cán bộ không biết cao cấp cỡ nào, lúc mới học lớp 9 (đệ tứ) đã tuyên bố thẳng thừng rằng, “Tao chẳng cần học cũng đỗ,” khi thấy chúng bạn nỗ lực học hành để khỏi phải thi lấy bằng Tốt nghiệp Phổ thông Cơ sở (Trung Học đệ I Cấp). (Học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏiđược miễn thi và lên thẳng lớp 10. Những học sinh khác phải thi đậu bằng vừa nói mới được vào lớp 10.)]

Tuy vào những năm sau này nhà nước có nới lỏng việc xét lý lịch sinh viên học sinh vì nhân dân ta kêu ca tả oán quá, nhưng theo chỗ Ngố biết vào thời điểm đó vẫn có hai nơi đào tạo chỉ tuyển con cháu bác và đảng viên mà thôi—trường hàng không và trường hàng hải.

Sau đây là một chuyện khác cũng có liên quan đến đầu tư ngoại quốc. Nhờ biết tiếng Hồng mao, nói không mỏi...tay, viết không cần...mồm, một anh bạn của Cả Ngố, người miền Nam, đi dạy học kiếm tiền độ nhật. Do học trò mai mối chàng ta mới làm quen được một Việt kiều quốc tịch Úc là giám đốc điều hành của một công ty Úc chuyên sản xuất đồ gỗ xuất cảng sang các nước Đông Nam Á mà chủ tịch là một ông mắt xanh mũi lõ người Phía Dưới.

Khi được giới thiệu với bạn hắn, ông chủ tịch mê ngay tài mau mồm lẹ miệng của tay dưa giá này và phong liền cho chàng chức Đại Diện, kiêm luôn chân thông ngôn phiên dịch tại VN, cho công ty. Sau đó nhờ một cơ quan nhà nước giới thiệu, công ty của chàng được một xí nghiệp gỗ VN liên doanh. Để hợp tác mần ăn với phía VN bằng cách ký một giao kèo liên doanh, công ty Úc kia đã phải mất cả năm trời thương lượng cò kè bớt một thêm hai.

Nhưng khi công ty liên doanh thực sự đi vào sản xuất, người ta thấy có nhiều trục trặc xẩy ra. Ví dụ như phía VN không cung cấp đủ gỗ vào thời gian ấn định như trong giao kèo, khiến nhà máy không sử dụng hết công suất, công nhân phải đứng chơi hút thuốc cán! Hoặc nhiều bộ phận máy móc đắt tiền không cánh mà bay. Những việc tiêu cực như vậy làm cho viễn ảnh xí nghiệp liên doanh mang lại lợi tức càng ngày càng xa vời, trong khi ông chủ tịch người Úc (lúc này là tổng giám đốc của xí nghiệp liên doanh, phải ăn dầm nằm dề tại VN trông nom xí nghiệp) cứ xin thêm vốn nữa từ công ty chính quốc hầu điều chỉnh lại những tiêu cực đó.

Bắt đầu cảm thấy hết kiên nhẫn khi biết còn lâu mới lấy lại được số vốn bỏ ra, những cổ đông có chân trong ban quản trị của công ty bên Úc quyết định không đổ thêm vốn vào xí nghiệp liên doanh èo uột tại VN nữa. Dù vậy, phía VN vẫn cứ phải để cho xí nghiệp đó sống bằng cách này hay cách khác, cũng như VN đã làm đối với những xí nghiệp khác có tình cảnh tương tự. Bởi vì chẳng lẽ nhà nước lại tăng quân số cho đội quân thất nghiệp vốn đã dư cấp số bằng cách phẹc-mê bu-tích? Trong tình trạng đó, có lẽ chỉ có ông tổng giám đốc người xứ căng-cu-ru là người kẹt địa nhiều nhất, đến độ hết cả tiền về xứ thăm “con dợ già,” như lời bạn Cả Ngố cho biết.

Trong khi xí nghiệp sống lây lất như vậy, bạn hắn cũng cảm thấy mình bất lực không mần nên cơm cháo gì nữa. Chàng bèn bỏ thuyền đang chìm bằng cách để cho cô thư ký của mình (vốn là học trò của chàng) lên làm đại diện luôn vì lúc này công việc tại văn phòng đã đi vào nề nếp, dù xí nghiệp làm ăn chẳng ra gì.

May mắn thay, chàng chẳng thất nghiệp lâu để phải trở lại nghề godautrenhư trước. Một ông người Úc khác ở trong công ty chính quốc nói trên thấy chàng có tài xoay sở, nhanh chân lẹ tay, mau mồm nhanh miệng, và làm việc nhiệt tình, bèn thu phục chàng về dưới trướng và mời hợp tác. Lần này phía Úc bỏ hẳn một số vốn ban đầu theo qui định của nhà nước VN để chàng thành lập công ty địa phương do chính chàng làm giám đốc. Mục đích trước mắt của công ty nội địa là lấy ngắn nuôi dài, tức là mua bán lòng vòng kiếm lời đủ để tự túc lương thực trong khi nhắm tới mục tiêu chính lâu dài là hợp tác với công ty chính quốc để mở nhà hàng loại gà chiên khoai tây rán tại VN.

Thế là chàng trở thành một ông giám đốc giám xúi ngon lành của một công ty lô-can. Chàng thuê phía trước của một biệt thự trên đường Công Lý làm văn phòng, ngoài cổng có bảng đồng sáng loáng khắc tên, địa chỉ, số điện thoại của công ty đàng hoàng. Văn phòng được trang bị máy điện toán...cũ, điện thoại, bàn ghế, đèn đóm, trông rất hiện đại, y như một văn phòng của một công ty tư bản.

Mặc dù rất bận rộn với khách khứa đến chào hàng dọ dẫm mua bán, chàng vẫn phải tập trung vào việc soạn thảo một bản nghiên cứu khả thi (feasibility study) cho dự án mở nhà hàng nói trên, và một giao kèo giữa hai bên VN và Úc, đồng thời làm các thủ tục khác để xin giấy phép hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Tất cả tài liệu này phải do cơ quan xuất nhập cảng Imex của nhà nước (trụ sở chính là cao ốc số 6 Nguyễn Huệ, Saigon; tòa nhà này bị bà hỏa viếng hồi cuối năm 89) dịch sang Anh ngữ mới được chấp nhận. Điều đáng nói ở đây là công việc này phải được trả bằng đô Mỹ, cho nên công ty của bạn Ngố phải tốn bộn xu Hoa-kỳ vào mục này.

 Xui cho chàng là vào thời điểm này (đầu năm 1991), những cán bộ tai to mặt lớn tại Ủy ban Nhân dân Thành phố lấy cớ bận bịu túi bụi với việc sửa soạn cho Dđ nói trên cứ hẹn lần việc xét duyệt đơn hợp tác kinh doanh của chàng. Khi cuối cùng các giấy tờ đó được cứu xét và chuyển ra Hà Nội ngâm cứu tiếp trước khi cho phép hay không thì ba bốn tháng đã trôi qua.

Cái rủi kế tiếp cho chàng là những cán bộ tai to hơn, mặt lớn hơn, có thẩm quyền phê để nuôi hay làm thịttại thủ đô bốn ngàn năm văn vật, viện lẽ bận rộn với việc sửa soạn đại hội đảng dự trù vào tháng 7-91, không chịu xét đến hồ sơ đầu tư đó. Do đó, tháng 7 đã gần hết mà giấy phép vẫn chưa hoàn tất.

 Những giới chức mà chàng và người đối nhiệm da trắng cầy cục xin được yết kiến, ai ai cũng hứa, “Được, được. Nhưng chờ ít hôm! Trong khi đó, mấy tay ở xứ đao-ăn-đờ cứ hối thúc “Goe đờ pớ-mịt?” làm chàng điên cái đầu. Chàng đi đầu này chạy đầu kia, bay tận ra Bắc với người đối nhiệm để xin xỏ, nhưng cuối cùng gần năm trời đã trôi qua mà chàng vẫn không biết dự án có được chấp thuận hay không.

Trong tình hình đó, công ty bên Úc hết kiên nhẫn chờ đợi, bèn rút lại quyết định hợp tác đầu tư một cái rụp, bảo rằng, “Mấy trăm ngàn đôđể sẵn trong ngân hàng biết bao nhiêu tháng nay không đẻ ra một đồng lời nào, vô ích quá. Chúng tôi rất tiếc phải đem đầu tư chỗ khác!” Thế là công ty của chàng sập tiệm.

Khi đi ngang qua văn phòng của chàng vào một ngày cuối tháng 7-91, Cả Ngố không còn thấy cái bảng đồng bóng lộn trước kia nữa. Thay vào đó là một hình chữ nhật trắng mờ nhạt trên nền tường quét vôi vàng nay đã ngả sang màu xám u ám!

 Đọc đến đây, độc giả hẳn phải cảm thấy không vui. Ai trong chúng ta, ra đi vì bất cứ lý do gì, mà không khỏi bâng khuâng ngậm ngùi trong lòng khi nghĩ đến quê hương mình, thấy nó cho đến giờ phút này vẫn lận đận lao đao mọi mặt, mặc dù trên danh nghĩa nó đã độc lập thống nhất từ năm 1976?

Đó là một nước lúc nào cũng tự hào có công nhân rẻ mạt, cần cù chăm chỉ, tay nghề cao, có tài nguyên phong phú, rừng tiền biển bạc, tức là những yếu tố rất thuận lợi để phát triển hầu tranh đua với những con rồng Á châu khác. Ấy vậy mà nó lúc nào cũng lẹt đẹt theo sau để làm một trong những nước nghèo nhất nhì thế giới!

Để thay phần kết luận, Ngố xin thanh minh thanh ngangay rằng khi viết bài này Cả Ngố không nhằm đả phá hay bôi nhọ, hoặc làm nản chí những ai có ý định đầu tư vào VN bây giờ hay trong tương lai, mặc dù chữ nghĩa giọng điệu của bài không được nghiêm chỉnh cho lắm. Ở đây hắn chỉ trình bày những gì mình mất thấy tai nghe về một khía cạnh rất nhỏ của tình hình kinh tế chính trị VN trong năm đầu của thập niên 90, còn phần kết luận xin dành cho quí bạn đọc.

Hắn hy vọng chuyện cà kê dê ngỗng này có thể giúp bạn đọc “mua vui cũng được một vài phút giây” khi đã chán xem những chuyện tình éo le, ướt át, ủy mị, đầy những hình ảnh khoe ngực phơi đùi và vi-ô-lăng trong sách báo hay trên truyền hình!(bảy-95)

4.  MÓN QUÀ TẾT ĐỘC ĐÁO☺

 Đôi lời mở đầu.- Đi học tập cải tạovừa là một kinh nghiệm, vừa là một kỷ niệm. Kinh nghiệm về cái gì mình đã phải trải qua. Kỷ niệm của cái gì mình có còn giữ lại. Đối với gã đàn ông tên Di, một người lính bộ binh trong quân lực VNCH trong bài dưới đây, dù là kinh nghiệm hay kỷ niệm, cả hai đều là những thứ để đời, in thành vết hằn sâu đậm trong tâm khảm. Chẳng hạn như cái đói mà hắn đã hơn một lần kinh qua. Con cá dưới nước không thể sống trên cạn; con cóc trên bờ sẽ chết dưới nước. Chính vì thế con này không đời nào có thể cảm nhận được cuộc sống nơi môi trường của con kia là thế nào, và ngược lại. Tương tự như thế, người chưa bao giờ bị đói không bao giờ có thể hiểu được cái đói cào gan xé ruột nạn nhân thế nào.

Chúng ta nên hiểu thêm rằng cơn đói hành hạ chúng ta ở cường độ rất khác nhau, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp. Chẳng hạn, khi chúng ta đang đói mà biết chắc mẩm rằng chút nữa đây sẽ có cái ăn, sự thèm ăn thôi thúc gặm nhấm chúng ta nhất định ở mức độ thấp hơn nhiều, so với trường hợp nó cào cấu dày vò chúng ta khi bụng rỗng mà không hy vọng có cái gì bỏ vào miệng trong khi chờ đợi cho tới bữa ăn sau, hoặc thậm chí cho tới sáng hôm sau.

Tù cải tạo thường xuyên thấy mình ở hoàn cảnh sau trong một thời gian dài, với bữa ăn sau thường là bát cơm gạo hẩm, lát sắn khô luộc, miếng khoai lang mốc, hạt muối biển mặn! Độc giả sau khi xem xong bài dưới đây có thể phê phán rằng đi học tập cải tạo, được cho uống bia mà nói rằng khổ sở thì khổ sở chỗ nào? Người viết xin độc giả đặt câu chuyện vào đúng thời điểm của nó, tức là thời gian của cái Tết cổ truyền VN đầu tiên sau 30-4-1975. Vừa mới đánh thắng được “kẻ thù số một của nhân dân ta,” Việt Cộng không khỏi hồ hởi phấn khởi. Chính vì vậy, cách thức kẻ thắng trận đối xử với kẻ bại trận có thể khác.

 Ngoài ra, biết đâu lúc ấy những con người Nam kỳ trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, là những ngưới có trách nhiệm chính trong việc quản lý các trại cải tạo, có cái nhìn còn tình người hơn đối với quân cán chính VNCH, so với cặp mắt đầy thù hằn của đám bộ đội cụ Hồ Bắc kỳ…cục?

Độc giả cũng có thể cho rằng việc cải tạo viên được cho uống bia vào dịp Tết cổ truyền chứng tỏ vi-xi đối xử tốt với tù cải tạo. Nói cách khác, một cách vô tình hay cố ý, qua bài này tác giả đã ca tụng kẻ thù chung của quân lực VNCH! Về việc này người viết xin trình bày như sau.

 (1) Bia có thể được phát tại vài trại cải tạo cá biệt, do đám bộ đội quản giáo của đơn vị đó bất ngờ phát giác ra một kho chứa xó xỉnh nào đó, tịch thu vô tội vạ, và đem phát cho tù cải tạo, chứng tỏ lòng quân tử của người thắng đối với kẻ bại. (Hồi ở trại Bùi Gia Mập, Phước Long, đơn vị của người viết bỗng nhiên một hôm được phát những bao cói đựng mắm ruốc—một biến cố đáng ghi nhớ trong chuỗi ngày dài không có thức ăn, hay chờ gia đình thăm nuôi chưa tới! Cán bộ trại cho biết họ ra lộ “chận một vài xe hàng lại, xét hỏi, và tịch thâu những bao thực phẩm lậu này, và chia với anh em!” Không biết các đơn vị bạn quanh đó có được chiếu cố như thế không?)

(2) Bia chắc là quá đát, (ít nhất trên 6 tháng kể từ 30-4, và không được bảo quản đúng mức), “cho chúng nó uống có chết cũng chẳng thiệt hại gì đến cách mạng,” kẻ thắng hẳn phải lý luận khi cho người thua sử dụng, trong khí thế cách mạng đang lên lúc bấy giờ.

Việc anh em cải tạo bị đối xử như thế nào trong những năm tháng dài sau đó nhất định không giống trường hợp này. Nhưng xét cho cùng, được uống bia không đá, không mồi, kém phẩm chất, đâu có gì là sướng, nhất là khi người uống có tâm trạng bất an?

Về việc món quà Tết độc đáonày có thật hay không, người viết xin được phép không thừa nhận và cũng chẳng phủ nhận.

 Lắm khi giữa việc có thực và điều giả tưởng, chúng ta khó có thể biết được cái nào có ý nghĩa sâu sắc hay kỳ lạ hơn.

 (Ghi chú thêm: 1. Truyện có tính cách vừa hư cấu vừa có thực; nếu có sự trùng hợp thì đó chỉ là ngẫu nhiên và nằm ngoài ý đồ của người viết. 2. Những nhóm từ ngữ in nghiêng cố ý trong bài để chỉ ngôn từ thường nghe thấy sau 75, ngụ ý chế giễu, trào phúng, hoặc nhấn mạnh.) Tác giả cẩn cáo.

* * *

          Bộ nhớ trong óc của con người thật kỳ lạ! Có những hình ảnh, cảm xúc, nó ghi nhận rồi lưu trữ không thể nào xoá đi được, không giống như dữ kiện trong máy điện toán là thứ có thể bôi đi được khi cần. Lượng dữ kiện hay thông tin này nhiều khi đã được ghi vào óc con người từ thời thơ ấu, hoặc từ mấy chục năm trước, có thể đến chết vẫn không thể đì-lít(1)được, khiến con người cứ bị chúng ám ảnh, đeo đẳng mãi trong đầu.

        Điều lạ là hình như con người chỉ nhớ dai nhớ dẳng những hình ảnh xấu xa, cảm xúc buồn bã, trong khi những thứ tốt đẹp vui tươi lại được quên mau quên chóng. Có lẽ chính vì thế mà con người phải sống triền miên trong đau khổ với dĩ vãng khó quên! Bộ nhớ của Di hẳn phải nằm trong trường hợp này.

          Chẳng hạn, Dicòn nhớ như in một buổi sáng tinh mơ, lạnh căm, trong cái bếp mái tranh vách đất, tại một làng quê vùng chiêm miền Bắc, lúc mới chỉ là cậu bé con năm sáu tuổi. Ngoài trời vẫn tối đen như mực mà bốn năm bà thợ cấy đã đến để được cho ăn sáng trước khi ra đồng làm việc. Trong trang phục hầu như hoàn toàn giữa đen tuyền và nâu sậm—đầu đội khăn vuông kín mít che luôn tai, mình mặc áo bông vá chằng đụp và váy dài chấm gót, chân đi đôi guốc mộc đơn sơ, họ trông thật ảm đạm nghèo nàn cực khổ. Vừa đến nơi họ chia nhau ngồi hai bên chiếc bàn ăn bằng tre nâu sậm đen dọn sẵn trong bếp, với nồi mười(2)cơm gạo vàng(3)còn bốc khói để trên cái ghế thấp ở một đầu bàn. Đầu bàn kia là cái đèn dầu hỏa đặt trên ghế đẩu, chiếu ánh sáng tù mù trong cái bếp mỗi bề khoảng không quá 5 mét.

          Bàn ăn này thường thấy để trong bếp vùng quê miền Bắc, là chỗ thợ thuyền và kẻ ăn người ở trong nhà dùng bữa. Mặt bàn là một khung bằng tre ống, hình chữ nhật, kích thước khoảng 50cm x 120cm; mặt lát kín bằng một tấm phên gồm những nan tre vuông vuốt tròn cạnh, đan dính lại với nhau bằng sợi mây, và đỡ phía dưới bằng những thanh tre ngang; bốn chân cũng bằng ống tre, cao khoảng 40 cm. Lúc mới bàn này có màu tre tự nhiên, nhưng khi cũ bàn có thể thành nâu bóng do lau chùi và bị ám khói.

          Bọn thợ cấy ngồi trên những cái đòn(4) thấp gần sát đất. Bàn và ghế như vậy, cho nên người ngồi ăn trông như ngồi xổm dưới đất! Trong ánh đèn vàng vọt, khuôn mặt họ gần như bị che kín dưới chiếc khăn, lộ vẻ an phận, chịu đựng, thỉnh thoảng điểm nụ cười nhe hàm răng nhuộm đen hạt huyền trông mộc mạc quê mùa. Họ ăn trong yên lặng, nhưng tận tình thưởng thức bữa ăn, với vẻ ngon miệng dễ thèm. Thức ăn chẳng có gì—trên bàn chỉ trơ hai đồ đựng: một bát tàu(5)to dưa cải củ muối và một bát sành(6) tương!

         Cậu bé chờ được ăn, trước khi dẫn trâu ra đồng ăn cỏ, tức là làm một Em Bé Quêmà nhạc sĩ Phạm Duy đã thi vị hoá trong bản nhạc cùng tên khá nổi tiếng của ông. Cậu không được ăn cùng lúc mà phải chờ bọn thợ cấy ăn xong đứng lên mới tới phiên—cậu ăn sau, rồi phụ dọn dẹp luôn! 

         Cậu bé co ro trong bộ áo cánh quần cộc(7) nâu sậm không đủ ấm. Mái tóc cắt ngắn gọn úp xuống khuôn mặt phèn phẹt; hai gò má nhô ra như để đỡ đôi mắt thao láo bên trên khỏi rớt xuống; cái mũi tẹt nhìn xuống hai cái răng cửa bàn cuốc đưa ra như muốn che cái cằm hơi lẹm phía dưới. Tất cả diện hình này làm cậu bé vốn đã không bụ bẫm hay béo tốt gì, trông càng xí giai, và già trước tuổi một cách đáng tội nghiệp!

       Đứng nhìn mấy bà thợ cấy nhai cơm ngon lành, với đôi mắt thèm thuồng thấy rõ, cậu bé phải nuốt nước dãi(8) ừng ực. Trong khi đó mùi cơm nóng, dưa chua, tương mặn—những thực phẩm quen thuộc hàng ngày của cậu—bay thoang thoảng trong không gian hẹp, chui vào hai lỗ mũi nở lớn, làm bụng cậu càng cồn cào, cấu xé, như thể gào thét inh ỏi, đòi hỏi phải có cái gì bỏ vào ngay tức thì, nếu không thì...chết. Bỗng mắt cậu hoa lên, và rồi ánh đèn như phụt tắt cùng lúc cậu khuỵu chân, nằm gục xuống, trên nền đất lạnh!

       “Ơ, ơ, này, thằng bé làm sao thế kia? Ơ... Ơ...” một người thợ cấy ngồi gần đầu bàn thấy vậy kêu lên. Mấy người kia cũng vội đứng lên chạy lại chỗ cậu nằm. Một bà ngồi xuống bế xốc thân hình mềm nhũn lên, ôm vào người, rồi ngồi đại xuống cái cái chõng tre(9) trống gần đó, đồng thời sờ nắn từ đầu xuống chân nạn nhân.

        Có lẽ nhờ hơi ấm từ người đàn bà tốt bụng, một lúc sau cậu bé tỉnh lại, mở mắt lờ đờ nhìn người đang ôm mình. Bà thợ cấy cuống quít hỏi dồn dập, giọng vừa mừng rỡ lẫn thương hại: “Này, cháu! Cháu...cháu...cháu có làm sao không đấy? Nói đi! Nói đi...cháu!”

“Cháu... đói... đói quá! Cho...cho...cháu... cháu ăn cơm với!” cậu bé thều thào đáp, ngập ngừng.

Mà không đói sao được? Ở tuổi đang lớn mà mỗi ngày cậu chỉ có hai bữa sáng trưa, với cơm gạo vàng, dưa cải chấm tương, hoặc muối vừng (mè). Buổi chiều may mắn lắm thì cậu được củ khoai luộc, hay bát cháo loãng ăn với cà muối, còn không thì đi ngủ luôn tới sáng hôm sau!

 Sáng hôm nay là một trong những sáng hôm sau đó. Tội nghiệp cho cậu lần này, cậu bị ngất xỉu vì quá đói; những lần trước cậu chỉ thấy nổ đóm đóm vì thèm ăn! Kỷ niệm để đời này đeo đẳng Di mãi cho đến ngày nay, lúc hắn đã gần thất thập cổ lai hi!

 Thực ra nó có nguôi ngoa đi nhiều cùng với cuộc sống cơm no áo ấm từ khi hắn được gặp lại cha mẹ tại miền Nam trù phú hơn, vào năm lên mười một. Ở đó hắn được cho ăn học tử tế đến khi trưởng thành và lập gia đình. Dù từ đó cuộc sống của hắn tương đối an nhàn đầy đủ, nhưng kỷ niệm ấy vẫn lởn vởn trong đầu hắn, dường như chỉ chờ có dịp thuận tiện lại hiện ra nhắc nhở Divốn đã có nét mặt không vui.

Chẳng hạn mỗi khi bất chợt được xem chương trình truyền hình của Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế, thấy những trẻ em quần đùi mình trần, thân hình trơ xương, mặt buồn so, và nhất là đôi mắt ngây thơ, toát ra vẻ vừa e thẹn nên không dám, vừa khao khát mà chịu đựng, đứng chờ để được nhận lãnh đôi chút tình thương vật chất tinh thần từ những người xa lạ ban phát, hắn thật sự xúc động mủi lòng nghĩ tới hoàn cảnh tương tự của mình khi xưa ở cùng lứa tuổi.

Thế rồi hắn nhập ngũ do tình hình chiến sự tại Miền Nam khoảng cuối thập niên 60. Dù ở trong quân đội, Di vẫn có cuộc sống tương đối bình an và êm xuôi, vì hắn được tuyển về một quân trường gần thành phố, nhờ có một ít kiến thức chuyên môn mà quân đội đang cần lúc ấy.

Cuộc sống ấy bị cắt đứt khi Miền Nam tự do rơi vào tay Miền Bắc cộng sản tháng tư năm 1975. Một kỷ niệm nhớ đời khác đến với Di kể từ mốc thời gian đó, hay chính xác hơn, từ ngày 25-6-75 là ngày hắn trình diện học tập cải tạo cùng với đa số lính VNCH cùng cấp bậc. Di còn nhớ buổi sáng sớm hôm ấy.

Tâm trạng hắn hoang mang, tan tác như đám lá me rụng bị hất tung lên khỏi mặt đường mỗi khi có chiếc xe gắn máy chạy qua trên khúc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước cửa Trường Nữ Trung Học Trưng Vương là địa điểm hắn phải đến trình diện.

Sau khi xuống xe và từ giã chiếu lệ người nhà chở hắn đến bằng xe gắn máy, Di nhìn quanh—mới lác đác một vài người! “Người ta đã làm việc đâu!” hắn nghĩ bụng và cảm thấy tiếc thời gian ở nhà.

Thực ra hắn đâu cần trình diện ngay ngày hôm nay, bởi vì theo thông báo của ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon lúc này chưa bị đổi tên, sĩ quan cấp úy trình diện trong vòng hai ngày 25 và 26 tháng 6, mang theo “10 ngày” tiền ăn, thực phẩm khô, quần áo ấm cần thiết. Nhưng gia đình hắn chẳng biết nghe lời ai mà cứ ra rả bên tai, “Đi sớm về sớm!” khiến hắn đành lòng lên đường đi vào đời cải tạo...

Từ ngày 30 tháng 4 đến mốc thời gian đó, ủy Ban Quân Quản ra mấy thông báo liên quan đến tất cả quân dân cán chính của VNCH, trong đó có thông báo khoảng giữa tháng 5-75 buộc họ phải ra trình diện tại những địa điểm chỉ định ở địa phương cư ngụ, mang theo vũ khí cá nhân nếu có và giấy tờ tuỳ thân liên hệ để giao nộp Chính Quyền Cách Mạng,một nhóm từ ngữ mới mà người dân Miền Nam phải làm quen nghe và thấy.

Tất nhiên kèm theo thông báo là biện pháp trừng phạt những ai không thi hành lệnh này—đó là bạo lực cách mạng,một nhóm từ ngữ khác mà người dân cho đến lúc đó hầu như chưa được nếm mùi! Là cá nằm trên thớt, tất cả có vẻ ngoan ngoãn thi hành.

Khi cầm mảnh giấy chứng nhận đã ra trình diện, Di cảm thấy dường như mình mất một phần cơ thể vì phải nộp cái thẻ kiểm tra (vi-xi gọi là chứng minh nhân dân), và căn cước quân nhân là những thứ coi như dính liền với con người hắn bấy lâu nay. Từ đây hắn coi như người không căn cước, không có cả quyền công dân, sống bên lề xã hội mới!

Ngoại trừ số người di cư 54, phần lớn dân Miền Nam thật thà ngây thơ và hầu như chưa có một kinh nghiệm nào về lối sử dụng ngôn ngữ mập mờ của Bác và Đảng. Cộng vào đó là cái tâm lý chung của chúng ta khi bối rối cầu mong có lối thoát: chúng ta thường diễn dịch sự kiện theo chiều hướng mình mong muốn. Chẳng hạn khi thấy hạ sĩ quan tập trung học tậpba ngày và rồi ra về thoải mái, quân nhân cấp úy suy diễn ngay, “Chúng mình 10 ngày là phải rồi!” Tương tự, quí vị cấp tá cũng nghĩ, “Một tháng cho bọn mình là hợp lý!”

 Công tâm mà nói, không có thông báo nào nói rõ ràng cụ thể là 10 ngày hay 1 tháng rồi về cả. Thực tế chứng minh rằng không ông úy bà tá nào bị tập trung cải tạo rồi được phóng thích trong thời hạn đó cả! (Trừ những trường hợp có chạy hoặc được cán bộ bà con có thớ bảo lãnh. Những trường hợp này cũng không nhiều, bởi vì dân Miền Nam còn ngây thơ chưa biết chỗ, hoặc cán bộ không muốn dính líu tới bọn ngụy vì sợ ảnh hưởng xấu đến đảng tịch.)

Với lối suy luận thuận lợi như thế, toàn thể quân nhân VNCH còn ở lại quê nhà ra lần lượt trình diện học tập cải tạo gần như tự giác với đôi chút an tâm, dù trong thâm tâm họ không biết những ngày sau đó sẽ ra sao đối với bản thân và gia đình. Hẳn là Di và đám người có mặt sáng hôm đó chia xẻ lối suy nghĩ ấy cho nên họ sốt sắng đến địa điểm sớm.

 Tuy nhiên trong nhúm người có mặt lúc ấy, hắn không thấy ai cùng đơn vị hay quen biết. Hắn thơ thẩn trước cửa trường, hết ngồi xuống bậc thang bước vào cửa trường lúc này vẫn đóng im ỉm, lại đứng lên bước tới lui trên lề đường rải rác lá me vàng úa.

 Đến giờ làm việc số người hiện diện cũng không đông thêm nhiều. Di cùng số người hiện diện lúc ấy bước lại phía cổng sau nhà trường khi được cho biết đó là nơi nhận...học viên cải tạo. Đây là cổng lúc trước dành cho học sinh đi xe đạp hay xe gắn máy ra vào trường.

Hai cánh cửa sắt chỉ mở vừa đủ cho cái bàn làm việc. Ngồi sau bàn là một tay bộ đội nón cối, với cuốn sổ lớn giấy vàng vàng cùng mấy cây viết bi trên mặt bàn. Một tay khác đứng cạnh đó, lăm lăm trong tay khẩu AK, dáng chừng là để giữ an ninh.

Xa hơn chút nữa vào phía trong, một hai tay bộ đội khác lảng vảng, với súng AK cầm tay, và nét mặt không mấy thiện cảm. Sau khi sắp xếp các thứ trước mặt cho ra vẻ trang trọng, tay bộ đội ngồi tại bàn nhìn lên đám người tới gần và ra hiệu bắt đầu làm việc.

Thủ tục trình diện cải tạo là nộp phiếu trình diện lần trước và khai một số chi tiết lý lịch cơ bản để tay bộ đội ghi vào sổ. Từ đây cải tạo viên hoàn toàn không có một thứ giấy tờ căn cước nào trong người. Và vì vậy sau này nếu có trốn trại họ khó có thể sống ngoài xã hội, nơi mà mọi sự di chuyển đều phải trình chứng minh nhân dân để xin phép chính quyền địa phương—trừ trường hợp biết mối chạy chọt và làm giấy tờ giả!

Sau khi học viên qua thủ tục đó, cánh cửa sắt được hé mở vừa đủ cho người ấy đi vào trong và khép lại ngay, và người kế tiếp bước tới. Cứ như thế cánh cửa khép lại từng cuộc đời ở thuở trai tráng của đám người bên ngoài khi họ lần lượt tự nguyện vào cũi mà không hề hay biết!

Một cơ sở giáo dục tầm cỡ của miền Nam bỗng nhiên biến thành một trạm tiếp nhận…tù nhân tình nguyện trước khi họ được chuyển sang những trại cải tạo chính thức mà lúc ấy họ không hề có một ý niệm dù mơ hồ nào về vị trí của chúng trên giải đất hình chữ ét-sờ này. Di bước vào thế giới của nữ sinh Trưng Vương, sau khi được cho biết phạm vi đi lại ăn ngủ trong thời gian ở đây là các phòng học. Hắn lên tầng một của tòa nhà chính 3 tầng chứa phòng học.

Bàn ghế còn nguyên, nhưng giờ đây hoàn toàn vắng bóng những tà áo dài trắng thướt tha mà trước đây hắn đã có lúc muốn đi theo sau lải nhải, “Xin cho tôi một chút tình”! Di bước ra lan-cannhìn xuống sân xem có ai quen trong đám người mới vào sau.

Không nhận ra ai quen, hắn lơ đãng nhìn sang phía trường Võ Trường Toản. Mấy cây phượng vĩ giờ này đang ra hoa. Những bông hoa mới bình thường trông đỏ thắm nhắc nhở học sinh mùa hè nghỉ ngơi vui tươi sắp tới, nhưng giờ đây màu đỏ ấy mang đến cho hắn cảm giác rờn rợn. A, thì ra đó là màu cờ của kẻ chiến thắng mà người dân Miền Nam được thấy khắp nơi từ gần hai tháng nay. Lúc đó phần lớn họ chưa biết đó là màu của chết chóc tức tưởi; màu của bạo lực bất nhân; màu của chế độ dã man!

 Di cũng như tất cả những người đồng cảnh ngộ, không ai có một ý niệm nào về thời gian bao lâu họ phải ở tại trường này. Họ chỉ biết là đến giờ ăn họ sẽ được nhà hàng phục vụtại chỗ, ở khoảng trống phía cầu thang dẫn lên tòa nhà chính. Cải tạo viên lần lượt mang tô nhựa đến đó để nhận phần cơm chiên Dương Châu. Sau đó họ tự do bưng tô cơm và muỗng nhôm, ngồi hay đứng ở đâu ăn tuỳ ý!

Về chỗ ngủ họ cũng được tự do lựa chọn trong các phòng học đó: giường là các bàn học, các băng ngồi, hoặc sàn nhà gạch bông. Tô nhựa và thìa nhôm là hai dụng cụ vừa được cấp phát ngày đầu vào giờ ăn. Không biết vô tình hay cố ý, người ta chọn toàn tô màu đỏ phát cho đám người thất thế.

 Cầm tô cơm màu máu trên tay, Di ngần ngừ một lúc rồi mới múc ăn nhai nuốt theo phản xạ tự nhiên, trong khi đầu óc nghĩ đến những ngày sắp tới không biết màu đỏ này ám ảnh mình mãi cho đến bao giờ. Ngày đầu tiên rồi cũng qua sau bữa cơm chiều tương tự như bữa trưa.

 Số người đông hơn; hầu như phòng nào cũng có ánh đèn nê-ôngvà tiếng người lao xao. Dil ăng xăng tìm chỗ nghỉ đêm trong phòng với những bạn cùng A1 (tiểu đội) gồm 10 người đầu tiên trình diện, trong đó một bạn được chỉ định làm A trưởng hay tiểu đội trưởng.

 Cứ 10 người một tiếp theo đó được xếp vào những A2, A3… Sau này hắn mới biết là A là đơn vị nhỏ nhất; kế đến là B (trung đội) gồm 3 hay 4 A; C (đại đội) có 3 hay 4 B, v. v.

Giữa tiếng bàn ghế bị xô đẩy khi cải tạo viên sửa soạn chỗ nằm, người trong phòng bỗng nghe một câu đùa giỡn rõ mồn một: “Ê, Cu! Mày có thấy chút gì hơi hướm từ cửa sau nữ sinh Trưng Vương hông mảy? Cửa sau dịch sang tiếng Tàu là hậu môn đó, mày!”

Hậu môn với tiền môncon mẹ gì! Mấy tháng rồi có cô nữ học...sanh đẻ nào ghé mông vào đây đâu mà tao hít được hơi. Nếu còn tí gì chắc nó cũng hảr ồi, mày ơi!”

Cả phòng cười rào rào, làm không khí bớt trang nghiêm xa lạ đi nhiều. Anh bạn tên Cu bị ghẹo hẳn là đang nằm thử giường mới của mình—hai băng dài kê sát lại nhau. Một vài người khác chọn chỗ ngay trên các bàn học.  Riêng Di thì lựa dưới sàn gạch bông, trong bóng của mấy cái bàn, vì sợ nằm trên cao lỡ ngủ mê lăn xuống đất, u đầu ê đít; với lại, nằm dưới đất giăng dây mùng vào các cạnh bàn dễ hơn.

Tuy đã chọn chỗ nằm, họ vẫn chưa chui vào mùng ngay, bởi vì còn sớm. Họ túm năm tụm ba chuyện gẫu hay làm quen nhau. Câu chuyện xoay quanh đơn vị cũ và gia đình. Một vài người có đem theo tờ Saigon Giải Phóng ngồi đọc giết thì giờ. Tin tức vào thời gian này không có gì ngoài những tin thuộc loại thừa thắng xông lên, ca tụng chiến thắng oanh liệt, đánh bại kẻ thù số 1 của nhân dân ta

Chuyện gẫu mãi cũng chán nên một số chui vào mùng tìm giấc ngủ...cô đơn; một số khác từng nhóm đôi ba chụm đầu to nhỏ. Một vài người tựa cửa sổ nhìn ra ngoài mơ màng tư lự theo làn khói thuốc dật dờ mình vừa thở ra. Di chui vào mùng, định tìm giấc ngủ sớm.

 Giữa thân hình gầy gầy của hắn và nền gạch bông lạnh cứng chỉ là tấm trải nhựa mỏng hắn mang theo, nên hắn không khỏi cảm thấy ê ê nơi những phần xương chạm gạch, dù hắn thay đổi thế nằm luôn. Lạ chỗ nằm, lạ người...lạ, lạ không khí, hắn thấy khó ngủ.

 Sợ nghĩ ngợi vẩn vơ thêm khó ngủ, hắn bắt đầu đếm cừu, theo phương pháp của một nhà tâm lý học chuyện trị mất ngủ nào đó. Ông này quả quyết là “Chỉ đếm độ hai trăm con là ngủ mất tiêu rồi!” “Một con, hai con, ba con, bốn con,...” hắn bắt đầu đếm. Nhưng tâm hắn nhẩy lung tung như Tề Thiên Đại Thánh, nên nhiều lần hắn quên số đã đếm và rồi sau đó lại phải đếm lại từ đầu!

Hăm lăm, hăm sáu,…” Tâm hắn lại phóng đi nghĩ về ngày mình phải trình diện hôm nay, và rồi về mấy ngày đầu tháng 5-75, lúc người dân Saigon còn ngơ ngác trước cuộc đổi đời quá mau lẹ. Một số tỏ ra vui mừng vì chiến tranh chấm dứt; nhưng đa số khác không khỏi hoang mang vì tương lai vô định. Trong khi đó, chính quyền cách mạng hẳn là cũng ngỡ ngàng trước chiến thắng oanh liệt đến nhanh không ngờ, bỗng phải tiếp thu một thành phố quá lớn mà sự trù phú sung túc làm chính kẻ chiến thắng phải thốt lên, “Đây là nước ngoài rồi, chứ phải đi đâu nữa!

 Đó là loại thành phố họ không thể có khả năng cũng như nhân lực để quản lý hiệu quả. Trong tình hình này thành phố hình như vô chủ. Dù sau này người ta biết có rất nhiều tay nằm vùng, song lúc ấy họ cũng chưa ra mặt vì chính họ cũng chưa biết thế nào, nên chính quyền cấp phường khóm kể như chưa có. Vì thế những tư gia chủ nhà đã bỏ đi, những công sở chưa người quản lý, v. v., được thiên hạ thăm viếng hôi của hay chiếm ngụ vô tội vạ.

Một hôm đứng trước nhà, Dithấy mấy người đẩy những ghế nệm văn phòng màu xám chân có bánh xe thường thấy trong các cơ sở Mỹ, đi ngờ ngờ ngoài đường, trong khi mấy người khác khệ nệ khiêng vác, hoặc cong lưng đèo trên xe đạp, những túi những chồng đầy sách bìa cứng dày cộm đủ cỡ lớn nhỏ, loại như tự điển. Nét mặt người nào người nấy vừa thản nhiên vừa vui mừng—vì những vật sở hữu mới!

“À, những đồ này ởHội Việt Mỹ trên đường Mạc Đĩnh Chi đây mà!” hắn nghĩ bụng. Những ngày sau đó hắn còn nghe nói dân chúng ào vào một kho gạo vùng Chợ Lớn, lũ lượt khuân gạo về nhà; có vài người chết vì bị đống bao gạo đổ ụp xuống khi họ moi rút những bao bên dưới!

299, 300, 301,...” Con số cuối cùng làm Di nhớ lại tên gọi trại giam 301 trong quân trường Thủ Đức, nơi nhốt bạn bè hắn về Saigon đi chơi với người yêu nhỏ. Chút xíu nữa hắn đã nếm mùi bị củ khi có ý định làm một chuyến ngày hôm sau, mồng một Tết. Đó là ngày đầu của cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân 68, do Việt Cộng bất ngờ thực hiện trong thời gian hưu chiến vào dịp Tết hàng năm.

 Hắn không có dịp thực hiện ý định từ đó cho đến khi ra trường tháng 6 năm 1968. “331, 332, 333,…” Đến đây Dilại ngừng vì dẫy con số gợi nhớ quá khứ. Đó là những con số người lính nhẩy dù phải vừa nhẩm trong mồm vừa ngửa mặt nhìn lên trời, khi vừa nhẩy ra khỏi máy bay. Sau khi nhẩm xong mấy số này mà chưa thấy dù mở, đương sự phải giựt dây mở dù nắm sẵn trong tay phải ôm trước ngực.

 Hắn nhớ lần đầu nhẩy thật: hắn không khỏi cảm thấy sờ sợ đứng tại cửa máy bay, tiếng gió vù vù, khoảng không bao la, mặt đất xa tít,… “Lỡ dù không mở…” ý nghĩ thoáng ra trong đầu hắn, nhưng cùng lúc ấy dù bung, giật người hắn lên một chút, kéo hắn về thực tại lơ lửng trên không, chung quang lác đác những bông dù của đồng đội.

224, 225, 226,…” Khi Di đếm đến đây, ai đó tắt đèn trong phòng. Bóng tối cùng sự im lặng lôi hắn trở lại thực tại trong một phòng học ở trường Trưng Vương. Hẳn là đêm đã khuya; hắn đếm tiếp và cố giỗ giấc ngủ. “229, 230,…” Hắn thiếp vào giấc ngủ mà không biết mình đã đếm đến con cừu thứ bao nhiêu!

Sáng hôm sau Di thức dậy cùng với bạn bè theo tiếng đánh thức qua hệ thống loa của nhà trường, khoảng 6 giờ sáng. Hẳn là có một số người thức trước đó, nên khi hắn ra lan-cannhìn xuống sân đã thấy nhiều người đứng đợi trước hai cầu tiêu nằm trong căn nhà nhỏ phía tay trái tòa nhà chính.

 Theo tinh thần thọ thọ bất thân, họ tự động đứng thành hàng một, nam một bên nữ một bên, trước hai cái cửa đóng im ỉm, chờ tới phiên mình vào trong để thực hiện một lúc tam tiệnmà con người phải làm hàng ngày, nhất là vào buổi sáng sau khi thức dậy, theo thói quen của đa số. Tội nghiệp hai cái nhà này bỗng nhiên phải tiếp đón một số người quá lớn, và tiếp thu một lượng bầu tâm sự đặc và lỏng quá nặng!

Nam cũng như nữ, mỗi người một vẻ, trong trang phục người thì tươm tất kẻ thì sốc xếch sau khi trải qua đêm tại một nơi lạ người lạ chỗ, họ trông có vẻ ngái ngủ và ngượng ngập đứng chờ để mầnmột công việc ai cũng phải làm nhưng ít ai nói tới mà không cảm thấy…kì kì! Di khó tưởng tượng hình ảnh và tâm trạng của chính mình ngồi bên trong cửa, chưa…ra, mà bên ngoài đã có người sốt ruột muốn .

Vì thế hắn…nín luôn, sau khi xuống rửa mặt qua loa tại vòi nước bên ngoài. Ngày 26-6 rồi cũng qua mau, với giờ giấc ăn uống như ngày hôm trước. Trong khi đó, người vào mỗi lúc một đông thêm, gần như đầy hết các phòng học và hội trường ở tầng trệt.

Di vẫn không thấy người quen cùng đơn vị cũ trong số đông này, cho nên hắn qua thời gian bằng cách làm quen những người bạn cùng A, cùng phòng. Buổi tối lại đến. Sau khi chuyện trò vớ vẩn, Di cùng đồng bọn lại sửa soạn chỗ ngủ qua đêm.

 Hắn lại bắt đầu đếm cừu như đêm trước. Đêm nay hắn không phải đếm đi lại nhiều lần như trước, có lẽ vì hơi quen quen chỗ, và đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Bỗng tất cả phải bật dậy, ngỡ ngàng trước tiếng loa phóng thanh oang oang đánh thức mọi người lúc khoảng nửa đêm. Họ được thông báo thu dọn đồ đạc và sửa soạn di chuyển ngay! Tất nhiên tất cả nhỏm dậy làm theo lệnh, trong bụng băn khoăn lo lắng không biết người ta đem mình đi đâu vào giờ khuya khoắt này.

Thế rồi họ được lần lượt điều động cứ 3 A một lên một xe nhà binh Trung quốc, trong dẫy xe đậu sẵn dài dài bên lề đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phía bên trường học. Ba chục con người, lớp ngồi trên băng hai bên, lớp ngồi trên mọi loại túi xách đồ đạc quăng thành đống giữa sàn xe, làm cái xe chật ních. Đã thế chiếc xe phải đèo thêm hai tên bộ đội, với khẩu AK trên tay, ngồi ngoài cùng.

Khi chiếc xe thực sự chuyển bánh, tấm bạt sau xe được thả xuống, khiến trong xe tối om, ngột ngạt hơi người. Trong tiếng ì ì của động cơ, thỉnh thoảng có tiếng, “Đường Hồng Thập Tự, mày ạ!” Một lúc sau người ta lại nghe, “Đường Lê Văn Duyệt, mày ơi!”

 Sau đó không ai nghe thêm gì nữa, có lẽ vì xe đã ra khỏi thành phố quen thuộc, người quan sát không biết tên đường nữa. Vả lại, có lẽ chẳng ai còn quan tâm nữa vì mệt mỏi, buồn ngủ mà phải ngồi bó chân trong không gian chật hẹp ngột ngạt tối thui.  Di gật gù mơ màng theo nhịp lắc lư mãi cho đến lúc xe ngừng hẳn.

Đó là buổi sáng sớm 27-6 lúc mặt trời ngấp nghé chân trời, soi đủ ánh sáng để thấy rõ cảnh vật. “A, căn cứ Trảng Lớn, các bạn ạ!” tiếng ai đó trong xe vang lên khi tấm bạt sau xe được giở lên. Ánh sáng sớm ban mai cùng không khí tươi mát tràn vào xe, làm mọi người tỉnh táo hẳn ra sau mấy tiếng đồng hồ ngồi trong xe bít bùng.

Có tiếng thở ra nhẹ nhõm, bởi vì ít ra địa danh quen thuộc này cũng giải đáp phần lớn câu hỏi âm thầm của họ từ lúc bị dồn lên xe cách đó sáu bẩy tiếng đồng hồ, dưới mũi súng AK của bọn vệ binh cộng sản. Xe ngừng tại cổng chính một lúc để trình giấy tờ, rồi rề rề đi sâu vào trong.

 Kể từ đây tấm bạt sau xe được cuộn lên luôn; hành kháchtrong xe mạnh ai nấy cố nghểnh cổ nhìn ra ngoài, quan sát cảnh vật. Lọt ngay vào tầm nhìn của họ là một toán đàn ông quần áo chẳng mấy tươm tất, có người đi chân không, đang khiêng mấy chảo gang to, bước đi một cách mệt nhọc chán nản, nét mặt nghiêm buồn như đang khiêng quan tài thân nhân!

“Mấy ông này chắc là đàn anh của mình, trình diện hồi giữa tháng đây!” Di nghĩ bụng. “Chắc họ đi lãnh dụng cụ để lập nhà bếp tập thể. Loại chảo này mình thấy ở Thủ Đức đây mà! À, mà sao cần phải chảo lớn…” Khi nghĩ đến đây hắn chợt ngẩn người như tỉnh ra, bởi vì nếu làm nhà bếp kiểu này chắc phải nhằm mục đích lâu dài, chớ chẳng phải mươi ngày như dân miền Nam ngây thơ suy diễn.

Khi xe càng đi vào sâu bên trong, Dicàng thấy nhiều doanh trại trống trơn, đổ nát, chung quanh ngổn ngang trang bị quân đội, khiến hắn có cảm tưởng như căn cứ vừa mới bị pháo kích đêm qua. Hẳn là trước khi bộ đội cộng sản vào chiếm lĩnh, dân chúng đã xâm nhậpvơ vét, chừa lại những thứ thường dân không dám lấy vì sợ vạ sau này. Cảnh tượng này khiến ít ai lúc đó có thể nghĩ rằng đây sẽ là nhà của mình trong nhiều tháng ngày tới. Riêng đối với Di, nó là nhà trong hơn 18 tháng!

Xe dừng lại trước một tòa nhà ngang lợp tôn vách gạch xi-măng, có lẽ là bộ chỉ huy đơn vị. Tất cả được lệnh xuống xe, mang theo túi bị cá nhân, và đứng xếp hàng trước sân, trong khi bộ đội một bên tiếp nhận, một bên bàn giao giấy tờ, và cùng kiểm điểm số người.

Sau đó một tay quản giáo đứng trước đám người ngơ ngác, nói những lời tuyên truyền cách mạng khoan hồng, học tập tiến bộ, đồng thời đọc nội quy trại, gồm mười mấy điều mà đa số là cấm đoán—không được nói tiếng nước ngoài, không được đi ra khỏi phạm vi qui định, chẳng hạn; xưng hô giữa quản giáocải tạo viên: cán bộ, anh, tôi… Di nhớ mãi câu, “…các anh dọn dẹp vệ sinh trại, ổn định chỗ ăn ở, yên tâm học tập, sẽ được tha về khi lào học tập tiến bộ…”

Cũng tại đây việc tổ chức đơn vị cải tạo được qui định rõ—một C gồm 3 B; một B gồm 4 A, tổng số là 120 mạng. C trưởng, B trưởng và A trưởng được chỉ định luôn theo trong danh sách trình diện. Mỗi ngày C trưởng đi giao ban, tức là lên gặp đám quản giáo để nhận lệnh, khi về truyền lại cho B trưởng, A trưởng, để thi hành.

Trong những ngày tháng đầu chưa làm được nhà lớn chứa cả C hay nhiều hơn nữa, đám cải tạo được chỉ định mỗi A chiếm ngụ một lô-cốt, trong dẫy lô-cố tchạy dọc theo chu vi vòng rào căn cứ. Đó là nhà ở cho 10 con người!

A của Di được chỉ định một lô-cốt nhìn ra phía ngoài là rừng cao-su; trước mặt phía trong có con đường trải nhựa đá ong, và một cái giếng nước ngọt phía trái. Lô-cốt này trước đây hẳn là trạm canh gác hay hầm trú pháo của binh lính tại đây; nó được xây cất có vẻ rất kiên cố. Nóc và tường bằng vỉ thép lót phi trường, bên ngoài bồi thêm một lớp bao cát thật dày. Ba lỗ châu mai nhỏ bé và bức tường bao cát chắn ngang cửa trước càng làm cho chốn này thêm tối tăm ẩm thấp.

Nền, gần như hình vuông, lót bằng những tấm gỗ thông dày khoảng một tấc, rộng khoảng bốn tấc sáu tấc. Vì tấm nào cũng có sáu lỗ tròn đường kính khá lớn nên khi dùng nó làm chỗ ngả lưng, người nằm chắc là không cảm thấy êm ái cho lắm. Nền lại được chia thành hai phần gần bằng nhau có độ cao khác nhau, vì thế họ không có cách nào khác hơn là chia đôi số người, mỗi bên chiếm một tầng.

 Để tránh người nằm tầng trên xâm nhập phần dưới khi ngủ, sau này họ tìm được một thanh gỗ và đóng chắn ngang sát sàn làm biên giới. Ngoài ra, họ phải nằm theo chiều ngang mới vừa đủ chỗ cho mọi người, nhưng nằm cách này thì một số hơi có chiều cao như Diluôn luôn phải co chân để khỏi đạp gẫy thanh gỗ ngăn cách!

 Khó chịu hơn nữa là lưng chỉ được lấn chiếm vừa đúng chiều ngang miếng ván sáu lỗ. Đây cũng là tiêu chuẩn chỗ ngủ cho mỗi người sau này khi họ dựng nhà ở tập thể chứa cả trăm tù cải tạo.

Ngay từ lúc được chỉ định chỗ ở, Di cùng bạn bè ra sức quét dọn làm vệ sinh nền, vách lô-cốt, bằng tất cả dụng cụ gì có thể chế biến và khắc phụctại chỗ. Tuy vậy những đêm đầu tiên vẫn là cực hình đối với 10 con người hoạn nạn. Sự ẩm thấp, mùi rêu mốc, tiếng muỗi vo ve, bóng tối dày đặc, tiếng ngáy trầm bổng, nỗi hoang mang—tất cả trộn lẫn trong một không gian quá chật hẹp làm tình làm tội đám người mới đến.

Những ngày sau đó, lợi dụng những lúc rảnh rang không phải lao động dọn dẹp theo lệnh trên(10), bọn họ tự động đi tìm kiếm vật liệu trong phạm vi được phép đi lại của mình để nới rộng nhà ở. Nhờ vậy họ làm thêm được cái chái bên ngoài, và bốn người, trong đó có Di, được cho ra riêng.

Ngủ ở chỗ mới thoải mái hơn vì không còn phải co chân suốt đêm, và có thể trở mình không chạm người nằm bên, nhưng lạnh lẽo hơn vì trống trải hơn. Ngoài ra, họ còn trổ thêm một cái hang bên hông lô-cốtđể chui ra chui vào cho tiện lúc đêm hôm cần đi ra ngoài. Gọi là cái hang bởi vì bức tường bằng bao cát dày cả thước hơn; ra vào bọn họ phải đi khom khom.

Còn ra ngoài là để xả bầu tâm sự đặc hay lỏng! Đây cũng là vấn đề cấp bách cần phải giải quyết ngay từ hôm mới đến. Chất thải lỏng thì tương đối dễ giải quyết—toàn là đàn ông, chĩa ở đâu mà chẳng được: ngay vách tường -cốt hoặc đứng trên bờ cái hào chạy theo hàng rào, có thể là ngay giữa thanh thiên bạch nhật, cũng chẳng sao!

Riêng chất đặc thì cần phải xử lýkỹ lưỡng hơn, và vì vậy công việc phải phức tạp mất công hơn! Thế là trong thời gian đầu, đám người khốn khổ phải tự đào những hố trên bờ hào gần lô-cốt và tìm vật liệu vớ vẩn che tạm, để mỗi khi ngồi thi hành nhiệm vụtrông đỡ chướng. Kết quả tức thời là những hôm có gió, bọn họ được nghe cái mùi đặc biệt thoang thoảng trong không khí cả ngày lẫn đêm!

Khi mùi quá nặng, họ phải lấp hố đi và đào hố khác. Ấy là chưa kể đám ruồi xanh rộn rịp bay vào chỗ bọn họ ăn uống. Sau này khi có nhà tập thể chứa được cả C, một nhà hiện đại kín đáo hơn được thiết lập trong khu đất trống phía trong.

Việc ăn cũng khó khăn phức tạp không kém, đặc biệt ở những ngày đầu nhập trại. Thực phẩm gồm gạo, nước mắm, và thỉnh thoảng có cá, được cấp phát hàng ngày theo từng C; nhưng vấn đế là làm sao nấu nướng trong khi không có dụng cụ bếp núc, tức là nồi niêu xoong chảo, phục vụ một tập thể lớn như thế? Thế là tất cả đều phải chia xuống cấp nhỏ nhất, tức là A mười người, để đơn vị này tự xoay xở.

Rất may trong thời gian này, bọn họ có thể tìm thấy khá nhiều thùng sắt đựng đạn đại liên, có cái còn rất mới, trong xó xỉnh ở khu vực họ được đi lại dọn dẹp, và dùng nó làm nồi nấu cơm, kho cá! (Trong thời gian dọn dẹp này họ còn thấy nhiều loại lựu đạn còn nguyên kíp, cùng những trang bị quân đội rất hữu dụng, ví dụ như xẻng cá nhân rất cần cho việc đào xới, vun đắp chỗ ăn ở; cà mèng; muỗng nĩa i-nốc,…)

Tìm kiếm than củi cũng là vấn đề cần giải quyết. Lại may nữa là ở đây có rất nhiều những tấm gỗ thông dày 6 lỗ (dùng để chuyên chở đầu đạn pháo binh), mà người ta đã dùng lót sàn lô-cốt, vách ngăn, lót lối đi, v.v. Lần lượt những miếng gỗ này được sử dụng vào việc đun bếp; cuối cùng cũng hết. Sau này khi có bếp tập thể, bọn họ được cho đi lấy những cột điện gỗ thông có tẩm dầu hắc, đặt nằm chồng lên nhau thành vách của hầm hay kho chứa gì đó, bây giờ bỏ không.

Đun bếp bằng những cây này thì dễ cháy, song khói um đen thui, toả mùi khét lẹt. Thực phẩm cấp phát thời gian này thường là nước mắm thứ phẩm trong bình nhựa 4 lít, và thỉnh thoảng cá tươi.

 Khẩu phần gạo 5 lạng/người/ngày rõ ràng là không đủ, bởi vì đa số còn cảm thấy đói. Gọi là 5 lạng, nhưng trong thực tế trọng lượng bao giờ cũng thiếu—thủ kho đổ lỗi cho việc cân đong đo đếm từ trên. (Lạng=100g)

Một hôm đói quá, Dicùng mấy bạn lẻn vào một nhà trống, lấy đại đám cơm phơi trên cái liếp tre, qua mấy ngày nắng mưa, đã lên mốc xanh vàng, hốt luôn cả những hột rớt xuống đất. Sau khi vội vã vo đãi cho sạch đất cát, meo mốc, họ bỏ vào thùng đạn, thêm chút muối, nấu thành cháo, rồi mấy thằng chia nhau vừa húp vừa xít xoa khen ngon! “Ôi! Cái đói, mày đã biến chúng tao thành con vật, sống theo bản năng sinh tồn!” hắn nghĩ bụng chua chát, khi nhớ lại.

Mà cháo vừa lỏng, vừa ít, gần như chỉ tráng đáy chén ăn cơm là phân nửa dưới của bình nhựa đựng nước mắm! Lý do là chiếc tô nhựa được cấp phát ngày đầu chỉ chịu nổi mấy ngày phơi ngoài nắng sau khi rửa tại trại cải tạochính thức, trước khi vỡ thành từng mảnh. Di và các bạn phải tận dụng những bình nhựa không này để làm chén ăn cơm!

Những ai được cà-mèng hay đồ đựng bằng i-nốckhác, khi ăn uống trông lịch sự hơn. Riêng Di thì chỉ lượm được một cái thìa canh ma-de in USAcòn khá tốt; nhưng hắn vẫn phải dùng tô nhựa biến chế này mãi cho đến sang năm 1976 khi được nhận quà từ gia đình, mới có dụng cụ ăn uống có vẻ đàng hoàng hơn.

Hắn đã phải thay mấy lần tô nhựa này, bởi vì loại nhựa này cũng chẳng chịu nắng mưa cùng với tù cải tạo!

Cái ăn đã thế; cái mặc cũng chẳng để bọn họ yên. Quần áo đem theo, nhất là đồ mặc lót, thi nhau rách nát theo thời gian. Di cùng bạn bè nghĩ ngay đến những bao cát khi phá bức tường chắn ngang cửa lô-cốt, bởi vì loại bao này dệt bằng sợi ny-lông se rất chắc, chịu được nắng mưa, không giống những bao cát sau này đan bằng sợi nhựa trông như cói xanh, rất mau mục nát.

Đổ hết đất cát ra, đem giặt sạch, bao trông cũng như mới, chỉ tội là dệt hơi thưa và sờ hơi nhám tay. Với kim chế biến từ sợi kẽm, chỉ là chính chỉ may bao cát, Ditự may cho mình mấy chiếc quần đùi, mặc bó sát như quần tắm đàn ông, bởi vì khổ của bao cát không đủ làm quần rộng hơn! Hắn cũng phải dùng phân nửa bao làm khăn rửa mặt!

Giày dép cũng không chịu nổi đường đá ong bùn đất ẩm ướt, cho nên đám cải tạothời gian này có nhiều người đi guốc! Chẳng hiểu những thanh gỗ thông rộng khoảng 10 cm, dày khoảng 5 cm, dài khoảng một thước, tiện lõm một bên, trông nhẵn nhụi, có công dụng gì trước đó, nhưng bây giờ được đám cải tạo viêncưa ra thành khúc dài vừa chân, và đóng quai bằng giải dây bện lưới thả dù, làm thành đôi guốc trông được đáo để. Giá được mặc thêm một bộ ki-mô-nô đàn ông, họ chắc trông giống người Nhật Bổn lắm khi đi những đôi guốc mộc này!

Chỗ ở, cái ăn, đồ mặc—thật là “ba cái lăng nhăng nó quấy ta,” khiến đám cải tạochẳng còn nhớ là 10 ngày đã qua từ lâu! Lụi hụi mấy tháng đã trôi qua, họ vẫn ở trong nhà lô-cốt, ăn ngoài trời dưới cái mái che sơ sài. Trong thời gian này việc “lao động là vinh quang” chưa có gì quá đáng, ngoài những lúc trêncần phu dọn dẹp vệ sinh doanh trại, hoặc khuân vác đồ nhập kho.

 Thời gian rảnh rỗi đám cải tạodồn vào những việc lỉnh kỉnh lo chỗ ăn ở và phục vụ bản thân kể trên. Chiều đến, nếu thời tiết cho phép, sau bữa cơm chiều cả bọn rủ nhau lên nóc -cốt nhìn ra ngoài hàng rào dây kẽm gai, “trông về quê mẹ ruột đau chín chiều!

Thật ra họ không còn chọn lựa nào khác, bởi vì chẳng có báo chí, truyền thanh truyền hình, và nhất là không có đèn đóm để có thể làm gì khác. Họ ngồi đó, có khi chuyện vớ vẩn qua giờ, có khi im lặng, mắt hướng nhìn ra ngoài hàng rào, mơ ước tương lai! Ngồi một lúc, và không muốn làm mồi cho muỗi rừng vo ve liên tục bên tai, họ leo xuống và chui vào buồng ngủ, cố giỗ giấc ngủ, chờ đợi một ngày mai như thế đến.

Cứ như thế thời gian trôi qua—cuối năm tây đến; cuối năm ta lại! Nhưng hôm nay không phải là một ngày mai như thế, bởi vì họ được thông báo ngày mai mồng một Tết cổ truyền, họ được nghỉ lao động, tự do thoải mái trong vòng rào, và được phát khẩu phần đặc biệt, nhân dịp “Tết dân tộc đầu tiên, toàn dân ăn mừng chiến thắng vĩ đại của nhân dân ta!

Khẩu phần đó là, ngoài những thứ bình thường như gạo nước mắm, còn có bia con cọp và thịt nợn—bia hai người một chai; thịt heo, khi chia ra mỗi người được một miếng to bằng hai ngón tay người… ốm! Hôm nay họ có vẻ bận rộn hơn mọi khi vì việc nhận lãnh và chia chác thực phẩm đặc biệt. Về thức uống cay họ trao đổisôi nổi tìm cách làm lạnh trước khi thưởng thức.

Khi có người đề nghị đem ngâm bia dưới giếng để qua đêm, chắc cũng đạt(11), mọi người đôn đáo tìm dây buộc chai, thòng xuống cái giếng trước lô-cốt. Đây là nguồn nước ngọt duy nhất cả bọn sử dụng vào việc ăn uống tắm giặt bao nhiêu tháng trời nay.

Những rộn rịp sôi nổi của ban ngày rồi cũng qua đi khi buổi chiều rảnh rang đến. Giờ đây họ lại đang ngồi trên nóc lô-cốt như những ngày trước. Hôm nay họ ngồi lặng thinh, trầm ngâm, mắt nhìn ra ngoài hàng rào, mỗi người một suy nghĩ riêng tư, trong đó chắc là có mơ ước lấy lại được một thứ quí giá vô hình mà họ đã bị lấy mất bấy lâu nay.

Tuy không ai nói gì, nhưng người ta có thể đoan chắc rằng đầu óc họ rất ồn ào, đầy những ý nghĩ thầm kín và thôi thúc, tìm cách lấy lại của đã bị tước mất. Trong đó thế nào cũng có người ước mơ mình biến thành…chim biết bay, như Di cùng ngồi trong bọn họ, chẳng hạn!

Thứ mà họ bị cuỗm mất đang nhởn nhơ, mời gọi, dụ dỗ, câu nhử họ, ngay trước mắt, chớ có phải xa xôi gì—bên kia hàng rào thép mắt cáo! Dưới ánh nắng mặt trời chiều ngấp nghé lặn, cảnh vật ở đó trông có vẻ chỉ là đồng khô cỏ cháy vào mùa này, nhưng hình như vẫn phát ra một ma lực thôi miên khó cưỡng.

Ngay trước mặt họ là cái hào rộng trên 5 thước mà vào mùa này cạn khô, chỉ có cỏ tranh mọc tua tủa từ đáy lên cả hai bên bờ cao. Trên bờ bên kia đứng sừng sững một hàng rào cao quá đầu người bằng lưới thép chống B40. Một số cây leo dù đã chết khô nhưng ngọn vẫn đong đưa, chới với, như cố bám víu vào sự sống nơi hàng rào để khỏi rớt lại xuống hào mỗi khi có cơn gió thổi qua.

 Nằm dưới chân hàng rào này, trải rộng cả mấy chục thước ra phía ngoài, có hàng hàng lớp lớp dây kẽm gai rỉ sét gắn trên cọc sắt, chạy chữ chi dày đặc, đè bẹp đám cỏ tranh và cây mắc cở vàng úa mọc bên dưới đang cố vươn lên rì rào trong gió chiều.

Đó đây bên dưới khối bùng nhùng kim loại lẫn cây cỏ vô tri này hẳn phải có vô số mìn chống tăng chống người đang nằm thản nhiên đón chờ khách mạo hiểm! Ngoài cùng là cái tháp canh bề ngoài trông rất hiền hoà vô hại. Nó như ngồi chồm hổm, thò bốn chân khẳng khiu cao nghệu cắm xuống đất. Bóng tên vệ binh nón cốihiện rõ trên nền khoảng không cửa sổ chòi gác. Hẳn là hắn đang theo dõi họ bằng đôi mắt cú vọ thù hằn, với khẩu AK lên đạn sẵn!

Hết lớp rào là đến khoảng trống đầy cỏ tranh màu khô cháy, ngọn đang nghiêng ngả đùa giỡn với gió. Ở cuối tầm mắt, rừng cây cao-su xanh thẳm nổi lên, nối với bầu trời lúc này còn vương ánh hoàng hôn hồng hồng tim tím.

Cũng thời gian này, cũng không gian này, nhưng chiều nay Dicảm thấy có cái gì trầm lặng khác thường. Mọi hôm cả đám cười đùa vui vẻ, hầu như quên hẳn cái mốc “10 ngày,” dù tiếng cười ấy, câu nói đó nghe như có cái gì gượng ép thiếu hồn nhiên.

Mặt trời cũng có vẻ như muốn lẩn trốn vội vàng hơn, thành thử bóng tối xập xuống nhanh hơn, và đêm tối trở nên đen đặc hơn. “Thật là tối như đêm ba mươi Tết!” một người nào đó buột miệng phá tan màn đêm tĩnh lặng. Thật vậy, bóng tối đặc quánh như hắc ín, như có thể sờ thấy được, ôm cứng lấy nhóm người ngồi đó.

Ngôi sao hôm mới mọc trông như hột kim cương to trội giữa đám sao li ti trên vòm trời trong đen, không đủ sức xuyên thủng bóng tối, soi sáng đến chỗ họ ngồi. Bóng đèn điện ở vòng rào ngoài cùng gần phía vọng gác chỉ toả ra một hình nón ánh sáng vàng vọt khiêm tốn dưới chân cọc sắt treo nó. Phía rừng cao-su trước mặt, thỉnh thoảng có vệt sáng ngắn ngủi của chiếc gắn máy lẹt đẹt chạy qua, rồi tắt ngúm.

Đằng sau họ, đèn ở khu bọn quản giáo cũng chỉ cho một thứ ánh sáng yếu ớt bệnh hoạn như ở nhà xác tỉnh lẻ, không đủ sức vượt quá phạm vi nhỏ hẹp chung quanh. Đi đôi với bóng đêm đen ngòm ấy là sự tĩnh mịch lạ lẫm của tối hôm nay.

 Chung quanh họ hầu như hoàn toàn im lặng. Ngoại trừ tiếng muỗi bay vo ve liên tục bên tai hoặc tiếng đập muỗi thỉnh thoảng ngay sát bên mình, Dikhông nghe thấy tiếng động gì khác rõ nét. Tiếng gió lướt trên ngọn cỏ tranh cũng như tiếng xe gắn máy ngoài con lộ xuyên rừng cao-su giờ đây nghe cũng rất nhỏ nhẹ, xa vắng, thoang thoảng và mơ hồ như tiếng xe cộ từ dưới đường vọng lên tầng thứ mấy mươi của một tòa nhà chọc trời nào đó.

Thời tiết vào mùa này thường trở lạnh. Nơi đây có vẻ lạnh hơn vì giữa đồng trống. Cái lạnh đó lại được tăng lên không ít bằng sự thiếu vắng không khí ấm cúng của gia đình sum họp cùng giọng nói tiếng cười của người thân quây quần bên mâm cơm buổi tối cuối năm.

Trong không khí lạnh lẽo cô đơn đó, thỉnh thoảng có cơn gió đưa tới mùi nhang thơm tho và mùi xào nấu hấp dẫn từ khu nhà dân quanh trại. “Chắc thiên hạ đang sửa soạn cúng ông bà và đón giao thừa,” Di nghĩ bụng, cảm thấy nhớ…dợ da diết!

Sau một lúc ngồi im lặng trong bóng đêm tĩnh mịch lâu hơn thường lệ, lòng mang nặng nỗi nhớ nhà ray rứt và người bị muỗi đốt liên hồi, Dicùng đồng bọn bảo nhau đi xuống. Mấy người chui vào lòng lô-cốt, còn hắn đi rẽ vào cái chái bên ngoài.

Sau khi vào màn(12), Di bắt đầu đếm cừu—hắn có vẻ quen với cách dỗ giấc ngủ này! Một lúc sau tuy hắn đã đếm đến mấy trăm rồi mà vẫn chưa thấy buồn ngủ.

Hắn cũng chắc rằng ít ai có thể ngủ ngay được trong hoàn cảnh này, khi trong lòng ngổn ngang dày vò bởi trăm mối lo âu sợ sệt xen lẫn hy vọng…viển vông, nhất là trong thời gian đầu khi họ chưa nhận ra được cái thế kiến bò miệng…bát của mình mà yên tâm học tập, và chưa biết rằng chỉ được về “khi lào học tập tiến bộ!

Đêm nay, đêm cuối năm đầu tiên trong đời cải tạo vô định của mình, lại càng khiến Dithao thức, dù đã đếm đi đếm lại số cừu, có lần lên tới gần ngàn con! Tính từ lúc chui vào mùng đến bây giờ cũng đã lâu, và đã có tiếng ngáy đều đều của đôi bạn vô tư dễ ngủ trong hầm vọng ra, hắn vẫn còn trằn trọc, bởi đang đếm cừu lại nghĩ đến chuyện khác. Người bạn nằm bên, một trung úy mà đơn vị sau cùng ở tận miền Trung xa xôi, hình như cũng ở tâm trạng như hắn. Hắn nghe anh trở mình luôn, và thỉnh thoảng còn có tiếng thở dài ngao ngán.

Trời càng về khuya càng thêm lạnh. Từng cơn gió khá mạnh thổi phần phật qua tấm vải bố che ngoài cửa vào trong chái, muốn hất tung mùng của bọn họ lên. Di co người như con tôm, cố thu mình nhỏ lại dưới cái khăn lông cũ hắn mang theo từ ngày đầu bây giờ đã rách nhiều chỗ, nhưng vẫn không thấy đỡ lạnh.

Bỗng có tiếng pháo nổ, lúc đầu lẻ tẻ thưa thớt, sau dồn dập liên tục, từ khu nhà dân bên ngoài vọng tới. Nghe gần hơn là từng tràng súng AK của vệ binhtrên các vọng gác. Chắc biết Di vẫn còn thức, người bạn nằm bên khều nhẹ và nói nhỏ, “Giao thừa rồi đó, anh ơi! Năm mới may mắn, hỉ!” Hắn đáp lại chiếu lệ, ngắn gọn.

Rồi hai người im lặng, tai lắng nghe tiếng pháo nổ rộn rã mà lòng mang nỗi buồn rười rượi của kẻ sa cơ thất thế xa nhà trong đêm trừ tịch. Giờ này ở nhà chắc mẹ Dicũng đang cúng giao thừa ngoài sân lộ thiên. Như thông lệ hàng năm, mẹ hắn đứng trước bàn thờ lâm râm khấn vái, cầu nguyện cho gia đạo được mọi điều an lành, xong đến lượt vợ hắn hoặc các em hắn. Năm nay trong lời cầu nguyện đó chắc có thêm phần dành cho hắn, mong hắn được mạnh khoẻ và sớm được về. Không biết thằng con hắn mới bảy tháng hơn có giật mình thức dậy đòi mẹ khi nghe tiếng pháo hay không?

Tưởng tượng gương mặt buồn bã của người thân lúc làm lễ đón mừng năm mới trong không khí trang nghiêm gia đình, hắn thấy xúc động muốn khóc.

Bây giờ tiếng pháo đã im bặt. D itrở lại với thực tế co ro trong chiếc khăn lông không đủ ấm của mình, nghĩ ngợi lung tung, chờ sáng. Nhưng rồi hắn cũng ngủ thiếp đi, cộng thêm một đêm nữa vào thời gian cải tạo của mình mà lúc đó hắn chưa biết sẽ kéo dài gần hai ngàn ngày khắc khoải.

Hôm sau mồng một Tết bọn họ được nghỉ lao động, nên có thể dậy muộn, trừ những ai tới phiên làm anh nuôi(13)phải thức lúc ba bốn giờ sáng đi nấu cháo cho bữa sáng. Tuy vậy, bọn họ cũng dậy ra ngoài hết, lúc mặt trời chiếu những tia nắng ban mai ấm áp lên cảnh vật. Sau khi trao đổi lời chúc Tết như thông lệ, họ tản mát trong khu vực, gặp bạn bè khác tán gẫu hoặc lo việc riêng.

Gần trưa Di cùng đồng bọn lãnh phần ăn của mình và sửa soạn bữa trưa thịnh soạn hơn bình thường: cơm kèm miếng thịt nợnkho to bằng hai ngón tay và nửa chai bia con cọp. Họ lần lượt rủ nhau ra giếng kéo bia lên.

Bia ngâm trong nước qua đêm sờ bên ngoài cũng lạnh đáo để, nhưng tất nhiên không thể bằng la-de lát-xê thứ thiệt. Di và người bạn không biết buộc chai thế nào mà kéo lên chỉ thấy dây nhẹ không. Thế là hắn xung phong, cởi quần áo, mặc xà-lỏn, leo xuống giếng mò bia; người kia đứng trên chờ.

Giếng này không lớn lắm; leo lên leo xuống cũng dễ vì thành giếng có sẵn những hốc bậc thang. Vào mùa mưa mực nước có thể lên đến gần ngang mặt đất, nhưng vào mùa này, nước rút xuống còn sâu hơn trên bụng một chút, và vì thế giếng trông có vẻ sâu hơn.

Tất nhiên Di mò thấy chai bia ngay. “Mày kéo bia bên, mang vào chỗ ăn. Tao xem xem còn gì dưới đáy nữa không, rồi lên ngay,” hắn bảo người bạn. Anh bạn chỉ mới đi được nửa đường thì có tiếng hét, “Á, á, á,...” thật lớn từ dưới giếng vọng lên.

Cả bọn chạy ùa ra xem. Lúc này mặt trời gần đứng bóng, chiếu sáng phần lớn mặt nước giếng đục ngàu, đủ để họ nhìn rõ phía dưới. Di đứng dưới giếng, mực nước ngang khoảng trên rốn, miệng há hốc, mắt mở lớn, ngước nhìn bọn người đứng trên có vẻ như muốn cầu cứu, để lộ khuôn mặt tái nhợt có lẽ vừa vì lạnh vừa vì sợ. Quá bất ngờ khi vớt được vật đang cầm trong hai tay giơ gần sát mặt, hắn như á khẩu, cúi xuống lại nhìn nó như bị thôi miên, đứng im như trời tròng, không biết nên bỏ nó ra hay giữ nó lại.

Đám đứng bên trên cũng đờ câm như bị phêthuốc lào ba số 9, chẳng biết phản ứng ra sao. Trong khoảnh khắc yên lặng đó, người ta chỉ nghe mấy giọt nước còn sót lại trong vật mới mò được thong thả rơi xuống mặt nước, tạo thành tiếng vang thật kỳ quặc trong lòng giếng.

Bỗng nhiên, như sực tỉnh từ cơn mê, người bạn ăn chung với Divọt miệng đánh tan sự im lặng, “Trời ơi! Thằng Di nó ôm cái đầu lâu, các bạn ạ!”

Cùng lúc nghe nhắc tên mình, Dibừng tỉnh, buông tay. Chiếc xọ người rơi tõm xuống nước.

Trên đường chìm xuống chốn cũ, nó kêu ục ục như bị trấn nước, và thở hắt ra một số bong bóng nước tan ngay khi vừa lên khoảng không đầy ánh nắng.

***

Bây giờ hơn ba chục năm sau nhìn lại, Dikhông khỏi mừng thầm khi thấy mình sống sót và vượt qua được bao nhiêu nhọc nhằn khổ cực từ tấm bé. Những kinh nghiệm và kỷ niệm này không khỏi làm cho khuôn mặt hắn vốn đã giaitrông càng kém vui và khắc khổ, dù bây giờ trí nhớ hắn có phai lạt đi nhiều ở tuổi về chiều.

Với đời sống gia đình tương đối ổn định và con cái có vẻ thành công ở xứ người, hắn có thể vui thầm, tự gán cho mình là “ngoài héo trong tươi!”

Nhưng những kinh nghiệm bản thân và kỷ niệm cá nhân ấy dù có xấu xa đến đâu, đau khổ đến đâu, nên quên đến đâu, cũng chỉ bằng một hạt cát bé tí trong những bãi cát bao la, chạy dọc theo bờ biển hình chữ S của VN, nếu đem so với những gì mà dân miền Nam, và ngày nay có thể nói gồm luôn toàn dân Việt Nam, trừ đám đảng viên cộng sản, đã phải trải qua dưới ách cai trị độc tài của Đảng Cộng Sản Việt Nam Quanh Vinh bấy lâunay.

Bởi vì nếu xét những vụ việc ghê gớm, độc ác, dã man, dối trá, loại thâm cung bí xử, mới được phơi bày ra ánh sáng trong thời gian gần đây, mà Đảng đã làm đối với nhân dân ta, người ta có thể nói không cường điệu rằng dân tộc Việt Nam đã bị Bác Đảng lừa gạt một cách tàn tệ trắng trợn, kể từ ngày Đảng Cộng Sản lên nắm chính quyền.

Ấy vậy mà họ vẫn cúi đầu âm thầm chịu đựng từ đó đến nay! Tại ai? Vì sao? Bị gì? (một-97)

 ☺Bài này có phần chính bằng tiếng Anh đăng trong nhật báo The Gazette, ngày 12-1-1997. Xin xem ở Phần Ruột Dư.

Ghi chú:(1) đì-lít: phát âm của tiếng Anh delete, có nghĩa là bôi bỏ, xoá đi, thường dùng trong điện toán; (2) nồi mười: nồi nấu cơm cho 10 người ăn, thường bằng gang; (3) gạo vàng: những bó lúa đập lần đầu xong, phần rơm còn lại được chất đống; chờ xong vụ gặt, người ta đem ra chà đạp lại để thu nhặt những hạt thóc còn sót; gạo vàng là gạo xay từ thóc này; gọi như thế vì cái màu vàng vàng nâu nâu của nó; cơm gạo vàng rất cứng và mùi không thơm tho hấp dẫn như cơm gạo mới lần đầu; (4) cái đòn: ghế ngồi, thường làm một tấm ván chữ nhật kích thước độ 20x40cm, chân là hai thanh gỗ cao khoảng 10cm, đóng phía dưới theo chiều ngắn của tấm ván; dùng để ngồi khi làm việc dưới đất, như dần, sàng sẩy gạo. (5) bát tàu: tô lớn, bằng sành; thời đó thường làm bên Tàu; (6) bát sành: chén ăn cơm; (7) quần cộc: quần đùi, quần xà-lỏn; (8) nước dãi/nước bọt: nước miếng; (9) chõng tre: một loại giường nằm, cấu tạo giống như cái mâm tre mô tả ở đây, nhưng chắc chắn hơn, kích thước to bằng khoảng cái giường chiếc, để có thể chịu đựng được người nằm ngồi; (10) trên: cấp trên; cấp chỉ huy cao hơn, thường ám chỉ giới lãnh đạo đảng viên; (11) đạt: tốt, hay, đẹp, giỏi, ngon, tuỳ ngữ cảnh; (12) màn: mùng che muỗi; (13) anh nuôi/chị nuôi: người nấu bếp, thường là cho bếp tập thể phục vụ nhiều người.

                                                                                                    Làm lành, tránh ác, giữ tâm trong sạch.

                                                                                                                                        Đức Phật Thích Ca

5. HỘI CHỢ TẾT MONTREAL XUÂN ĐINH SỬU 1997

Ngày 2-2-1997 vừa qua, thương xá nhiều tầng tráng lệ Complexe Desjardins lại một lần nữa tiếp đón đông đảo người Việt đến tham dự Hội chợ Tết lần thứ 19 tại địa điểm này. Được biết Cộng đồng Người Việt Quốc Gia vùng Montréal (CĐ) tổ chức hội chợ Tết tại đây kể từ năm 1979. Nếu kể luôn những lần trước đó ở những địa điểm khác, hội chợ Tết có số tuổi bằng thời gian người Việt bắt đầu đến định cư tại miền “đất lạnh tình nồng” này từ sau biến cố tháng tư đen 1975, tức là non 22 tuổi!

        Như một em bé Việt Nam nhập cư từ lúc chập chững đến lúc trưởng thành, trải biết bao công lao dưỡng dục sinh thành của cha mẹ mới trở nên một trang thanh niên 22 tuổi đời đầy sức sống, sánh vai cùng thành viên của những sắc dân khác xây dựng xã hội đa văn hoá Canada, hội chợ Tết Montreal cũng không ngừng phát triển và trở thành “một truyền thống của thành phố Montreal,” như lời Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền, Chủ tịch CĐ, trong diễn văn chào mừng quan khách tham dự hội chợ năm nay.

        Thậy vậy, đây quả là một biến cố hàng năm đáng kể trong đời sống văn hoá tại thành phố này. Nó là “dịp để chúng ta bày tỏ cho các sắc tộc bạn, người bản xứ, biết sức sống, các nét đặc thù của giống nòi Việt, cùng khả năng đa diện, khả năng hội nhập của chúng ta,” (trích Lá Thư Tòa Soạn của chủ nhiệm tạp chí Quốc Gia, BS Nguyễn Lương Tuyền, gởi bạn đọc gần xa). Từ 100 người tham dự lên đến 25 ngàn người có mặt, há chẳng phải là điều đáng để ý hay sao? Hoặc từ một chỗ chiếm vài trăm bộ vuông đến một nơi rộng rãi mấy chục ngàn bộvuông, không phải là điểm đáng nêu lên hay sao? Hay từ 1 ngàn đô tiền thuê mặt bằng tăng lên đến 15 ngàn tiền mướn địa điểm, không phải là chuyện đáng quan tâm lắm ru?

        Nói rằng mức gia tăng nêu sau cùng là chuyện phải quan tâm có lẽ đúng thực trạng hơn, bởi lẽ nó có ảnh hưởng sống còn đối với hội chợ Tết. Trong khi mức trợ cấp của chính phủ cắt giảm xuống tới độ không đủ mua giấy bút cho văn phòng CĐ, và sự đóng góp, ủng hộ của hội viên và mạnh thường quân còn giới hạn, số tiền thuê chỗ năm nay quả là một gánh nặng cho ban tổ chức. Nó gây lo ngại đến độ ông chủ tịch CĐ phải nêu lên khi phát biểu chào mừng quan khách và đồng bào, bằng tiếng Việt như sau, “Chúng tôi quan niệm rằng hội chợ Tết không phải là lúc chúng ta làm thương mại, nhưng vì lý do eo hẹp về tài chánh của CĐ, vì lý do giá cả càng ngày càng tăng, thành ra năm nay chúng tôi mạn phép nhắc quí vị ủng hộ CĐ để trang trải những phí khoản cho ngày hội chợ Tết này. Khi vào cửa xin quí vị nhớ ủng hộ hai hay ba đồng để chúng tôi có đủ tiền... Một cái Tết không có ngày hội Tết làm chúng tôi lo sợ. Chúng tôi hoàn toàn trông cậy ở quí đồng bào...”

        Xin nói ngay, việc ủng hộ này hoàn toàn có tính cách tự nguyện, tuỳ lòng hảo tâm của khách đến. Nếu khách cảm thấy đây là chuyện nên và đáng làm thì cứ bỏ số tiền hai đồng hoặc hơn tuỳ hỷ vào thùng giấy để sẵn ở các cửa ra vào, và được phát cho một vé vào cửa có số mà sau đó được dùng trong cuộc xổ số trúng quà giá trị. Nếu ngược lại, khách cho rằng như thế là bóc lột quá thì cứ việc thản nhiên đi vào cửa rộng thênh thanh, chẳng có ai chận lại xét vé, hoặc xin mời ra nếu không có! (Thương xá này khổng lồ, nhiều tầng, có rất nhiều cửa ra vào, và ban tổ chức không có và cũng chẳng muốn cử người đứng kiểm tra.) Nói chung, đa số đồng bào ta rất thông cảm với ban tổ chức về việc làm này nên chẳng ngần ngại ủng hộ.

        Việc ủng hộ tuỳ tâm này đã đánh tan tin đồn ác ý cho rằng vào cửa PHẢI đóng tiền. Tuy số tiền ủng hộ không đáng bao nhiêu, tin đồn này cũng làm nhiều người trong chúng ta do dự không muốn đi, bởi vì bao nhiêu năm nay chúng ta đã quá quen với nhóm từ ngữ Vào Cửa Tự Do. Theo tâm lý chung, chúng ta vẫn cảm thấy thoải mái hơn khi được cái này mà chẳng phải mất cái gì khác. Nhưng xét cho cùng, làm cái gì thời buổi này mà không cần tiền? Làm văn hoá lại càng tốn kém hơn, và thường là lỗ vốn; còn lời thì chúng ta không thể nào tính thành đôhoặc nhìn thấy được. Bởi vì những cái được về văn hoá vừa vô hình vừa vô giá!

        Chợ Tết năm nay không có nhiều gian hàng như những năm trước, vì hầu hết các quầy hàng có mặt hàng năm là của các chùa tại thành phố, mà năm nay họ lại vắng bóng. Những gian hàng này thường bày bán bánh mứt ngày Tết, các món ăn chay chùa làm, và một số kinh sách tôn giáo—những sản phẩm mà đồng bào ta rất ưa thích. Được biết các chùa không tham dự như thường lệ vì không bõ công lao bỏ ra khi phải tuân theo nhưng qui định gắt gao hơn về vệ sinh ăn uống mà thành phố mới qui định lại, chẳng hạn như gian hàng thức ăn phải có tủ lạnh cỡ lớn, lò hấp, v.v., là những thứ nặng nề cồng kềnh, di chuyển tốn kém khó khăn. Tuy vậy, người ta vẫn thấy mấy quầy bán thức ăn, chẳng hạn như gian hàng của Hội Rồng Vàng (năm nào cũng có mặt), của Hội Phụ Nữ, hoặc của sinh viên Đại học Montreal.

        Sự vắng mặt này làm cho mặt bằng chính của hội chợ (tầng trệt) còn nhiều khoảng trống. Nhưng không phải vì thế mà số người tham dự không đông. Có người đến từ đầu, dự lễ khai mạc; có người chỉ đến vào phần văn nghệ. Nhưng tất cả đều đến với ý nghĩ chung là để thưởng thức những gì còn thuần túy dân tộc, đồng thời để “gặp gỡ nhau trong ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm.” (trích Lá Thư Tòa Soạn, báo Quốc Gia, số 57). Người ta thấy đồng bào đứng thành từng nhóm chuyện trò vui vẻ, hoặc bao quanh những gian hàng văn hoá nghệ thuật phẩm, hay các quầy hàng bán thức ăn, hoặc đứng quây quần đông nghẹt trước sân khấu.

        Cảnh người Việt chúng ta ăn quà vặt ngoài đường phố hay nơi công cộng trông không mấy lạ, bởi vì chúng ta có truyền thống hay...ăn chợ đái đường! Nhưng hình ảnh một người bản xứ mắt xanh mũi cao, quần áo chỉnh tề, một tay cầm ly chè đậu xanh, một tay cầm muỗng múc chè đưa vào mồm nhai ngấu nghiến ra chiều đắc ý, trông vừa lạ mắt, vừa dễ thương! Hôm nay cảnh này nhan nhản.

        Trên lầu, những quầy trò chơi và gian hàng triển lãm cũng thu hút một số người tham dự quây quần náo nhiệt chung quanh. Trong mấy năm gần đây còn có thêm sự hiện diện của gian hàng trưng bày sách báo phim ảnh do “hệ phái tôn giáo” Thanh Hải Thượng Sư phát hành. Sự có mặt của nó khiến một số người thắc mắc tại sao CĐ cho tổ chức này thuê chỗ, nêu lý do là lãnh tụ của “hệ phái” này làm nhiều điều tai tiếng và hiện đang bị chính phủ Hoa-kỳ hỏi thăm sức khoẻ.

        Về điểm này có lẽ chúng ta phải bình tâm mà xét. Chúng ta đang sống trong một xã hội dân chủ tự do, trong đó mọi người đều có quyền bày tỏ ý kiến hoặc hành động tuỳ thích, miễn sao lời nói hành động đó không vi phạm luật pháp hiện hành. Cũng trong tinh thần đó, chúng ta có quyền tin hay không tin những “giáo pháp” của hệ phái này. Ngoài ra, theo luật pháp, một cá nhân chỉ có tội khi tòa án chứng minh được rằng đương sự phạm pháp. Cho nên việc chúng ta trách cứ CĐ như trên có đi ngược lại tinh thần tự do dân chủ chăng?

        Trở lại tầng trệt là nơi đặt sân khấu. Sân khấu trang trọng, lá cờ vàng to căng thẳng đứng chính giữa trên phông sau, ngay trước đặt bàn thơ Tổ Quốc, hai bên có cờ Canada và cờ VN. Trong nghi thức khai mạc, sau phần chào cờ Canada và Việt Nam, quí cụ trong Hội Rồng Vàng mặc quốc phục cử hành tế lễ Tổ. Đối với khách bản xứ, hình ảnh này trông lạ mắt thích thú, độc đáo trang nghiêm, nhưng đối với chúng ta đó là Hồn Linh Khí Thiêng VN. Như lời trong bài sớ được đọc khi hành lễ, Hồn Khí này:

Bay toả khắp mười phương

Bay thẳng về Bách Việt

Bay suốt nẻo Trường Sơn

Bao trùm non Ngũ Lĩnh

Bao phủ trời Á Đông,

và rồi thề nguyền:

Thành kính dâng Quốc Tổ

Thủy chung một tấm lòng

Trước thềm Nguyên Đán Tiết

Chúng con ở xa xôi

Muôn triệu người như một

Đều hướng tới tổ tông

Dù sao dời vật đổi

Cháu Lạc với con Hồng

Thề ước cùng Tiên Tổ

Đắp bồi lại non sông.

        Trong diễn văn chào mừng cử toạ ngay sau màn tế lễ, ông chủ tịch CĐ nêu bật những thành tích của người Việt đóng góp vào đời sống văn hoá kinh tế xã hội giáo dục của thành phố chúng ta đang dung thân, đồng thời ông cũng không quên bày tỏ lòng tri ân đối với dân thành phố chủ nhà về những giúp đỡ quí báu mà họ đã dành cho kẻ mới đến từ khi bỡ ngỡ bước vào cuộc sống mới tha hương nơi xứ lạ.

        Ông Pierre Bourque, thị trưởng Montreal, trong phát biểu đáp từ, cũng ca ngợi những thành quả mà công dân Canada gốc Việt đã đạt được tại đây, cũng như những đóng góp mà họ mang lại cho xã hội đang sống. Khi biết năm mới là năm Con Trâu, ông nêu những đức tính của con vật này, và hy vọng rằng những công dân mới làm việc cần cù chăm chỉ thêm nữa, để có những cống hiến làm phong phú xã hội đa văn hoá của Canada nói chung và thành phố này nói riêng.

        “Chuc Mung Nam Moi,” là lời đầu tiên của Dân biểu quốc hội Canada, bà Sheila Firestone, đại diện Thủ tướng Jean Chrétien và Phó Thủ thướng Sheila Copps, khi lên diễn đàn. Tuy không được đúng giọng cho lắm, lời chúc cũng được cử toạ tán thưởng nhiệt liệt. Sau khi có lời chúc Tết của cá nhân bà, dân biểu này đọc thơ chúc Tết của Thủ tướng và của Phó Thủ tướng. Nội dung hai thơ này ghi nhận sự đóng góp của cộng đồng công dân gốc Việt, đồng thời kêu gọi chúng ta cố gắng thêm nữa để giúp xây dựng một xã hội hài hoà gồm nhiều sắc dân tại Canada.

        Ông Thị trưởng lại được mời lên sân khâu lần nữa sau đó, để đốt một dây pháo dài khoảng 1 thước. Tuy dây pháo không nổ liên tục, nhưng chúng ta cũng hy vọng chuỗi tiếng nổ dòn dã ngắn ngủi này cũng đủ để xua đuổi tà ma ám khí của mấy ngày năm cũ còn lại. Sau đó con lân nhẩy múa tung tăng trên sân khấu bên cạnh ông địa tới lui điệu bộ theo tiếng trống xập xình, đem lại không khí vui nhộn, như để chào mừng những ngày năm mới sắp tới. Mục múa lân chấm dứt phần nghi lễ khai mạc để sang phần văn nghệ giúp vui.

        Trái với tin đồn cho rằng năm nay hội chợ Tết không có phần văn nghệ vì CĐ không còn tiền để thuê mướn ban nhạc, chương trình ca múa nhạc khá dài và đa dạng. Thậm chí chúng ta còn có thể nói rằng chương trình này có sự đóng góp quốc tế bởi vì có sự tham dự của đoàn vũ Trung hoa, múa xạp Phi-luật-tân, múa thể dục nhịp điệu hoặc trình bày thời trang của dân bản xứ.

        Những ca sĩ trình diễn đều quen thuộc đối với dân thanh phố, có giọng ca, phong cách cũng như nghệ thuật diễn đạt điêu luyện nhà nghề, và đã từng trình diễn đó đây ngoài Montreal này, chẳng hạn như Đào Trọng Quyền, Mai Thy, Đoàn Chính, Xuân Mai, Hữu Phúc, Bình Minh, v.v., và hai tay chơi oọc-ganTrí Tuấn và Hữu Thọ. Hai ca sĩ Đào Trọng Quyền và Mai Thi vừa làm hoạt náo viên vừa phối hợp giới thiệu các tiết mục văn nghệ.

        Bài Ly Rượu Mừng, do Liên Hội Sinh Viên trình bày, mở đầu chương trình văn nghệ dài 15 tiết mục. Dù bài hát chúc Xuân quen thuộc bất hủ, điệu luân vũ làm ấm lòng người nghe khi nó mang lời chúc tốt đẹp trong năm mới tới mọi tầng lớp dân chúng trong xã hội chúng ta trước đây, nhưng trong không khí ngày này nghe nó vẫn thích hợp và gây nhiều xúc cảm. Sau đó những tiết mục như đơn ca, hợp ca, tân cổ giao duyên, độc tấu độc huyền, múa, nhẩy xạp, v.v., được giới thiệu xen kẽ, đã đưa tâm hồn của khán thính giả vào những trạng thái thưởng thức khác nhau: khi thì sôi nổi, dồn dập; lúc thì trầm lắng, chậm buồn.

        Bài Saigon Vĩnh Biệt, do anh bạn bản xứ tên Didier Manchione trình diễn, chấm dứt chương trình. Với giọng tiếng Việt gần như hoàn chỉnh, ca sĩ tóc vàng mắt xanh này để lại trong lòng người nghe biết bao âm hưởng nhớ thương khi anh hát, “Dù thời gian có là một thoáng đam mê, phố phường rợp ánh sao đêm, nhưng tôi vẫn không bao giờ quên...

        Nhưng quí độc giả phải đến tận nơi, thấy tận mắt, nghe tận tai thì mới cảm nhận được cái hay, cũng như cái dở, mà người viết này không đủ khả năng để diễn tả lại hết trong biến cố một năm một lần này.(tư-97)

6. HỘI THẢO VỀ ĐỀ TÀI DẠY TIẾNG VIỆT CHO THIẾU NHI VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI

        Ca Đoàn Nhạc Việt, nhóm chủ trương chính khởi xướng mở Trường Sinh Hoạt Thiếu Nhi vùng Montréal (SHTNM), vừa tổ chức một buổi hội thảo về việc Dạy Tiếng Việt, vào ngày thứ bảy 15-2-1997, tại trụ sở Hội Y Sĩ, số 6338-6 đường Victoria, Montréal. Buổi hội thảo kéo dài từ 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều, xen kẽ ở giữa là bữa ăn trưa nhẹ do ban tổ chức đài thọ.

        Theo thư mời tham dự gởi đến quí vị giáo sư, các hội đoàn cũng như các cơ sở tôn giáo trong vùng Montréal có mở những lớp dạy Việt ngữ, mục đích của buổi hội thảo này là để “trao đổi kinh nghiệm dạy tiếng Việt cho thanh thiếu niên Việt Nam tại Montréal và vùng lân cận.” Để tăng thêm sức thuyết phục cần thiết cũng như mang lại kết quả cụ thể cho buổi hội thảo, ban tổ chức đã mời được hai vị giáo sư có thẩm quyền trong ngành đến trình bày kiến thức chuyên môn và trao đổi kinh nghiệm.

        Cử toạ đa số là thày cô giáo của trường SHTNM. Ngoài ra, người ta thấy có sự hiện diện của Bác Sĩ Đặng Phú Ân, chủ tịch Hội Khuyến Học và Phát Huy Văn Hoá VN, BS Lâm Thu Vân, sáng lập viên các lớp Quê Hương Mến Yêu, BS Lại Thế Hưng, trưởng Ca Đoàn Nhạc Việt, và phu nhân, Cô Bùi Ngọc Phúc, đại diện trường Việt Ngữ của Hội Phật Giáo Quan Âm.

        Theo ông Phạm Thông, hiệu trưởng trường SHTNM, kiêm trưởng ban tổ chức hội thảo, lẽ ra còn có thày cô giáo của những trường Việt Ngữ khác như của Thiền viện Huyền Không, và của chùa Long Hoa, nhưng không hiểu sao đại diện của những nơi này không thấy đến dù có thơ mời.

        Hội thảo khai mạc bằng đôi lời chào mừng và giới thiệu của trưởng ban tổ chức. Tuy hai giáo sư Khiếu Đức Long và Hoàng Chiều Nhân không xa lạ gì đối với cộng đồng người Việt ở đây, nhất là đối với những ai thường hay theo dõi và tham dự những sinh hoạt văn hoá giáo dục nghệ thuật Việt tại địa phương, nhưng trong dịp này ông trưởng ban tổ chức cũng vẫn giới thiệu hai vị với cử toạ.

        Nhờ phần giới thiệu này, cử toạ được biết trước 1975, GS KĐLong, cử nhân giáo khoa Việt Hán, dạy môn Việt văn tại trường trung học Lý Thường Kiệt, Gia định, và Trương Vĩnh Ký, Saigon. Sau khi trình tiểu luận án cao học văn chương Việt Hán năm 1969, ông được mời dạy môn Văn học Phật giáo tại Đại học Vạn Hạnh, Saigon. Ngay khi đến định cư tại Montréal năm 1991, ông đã cộng tác với các cựu giáo sư bạn trong các lớp Quê Hương Mến Yêu, phụ trách phần Văn học VN, đồng thời tham gia tích cực trong mọi sinh hoạt văn hoá giáo dục của cộng đồng VN địa phương. Năm 1993, ông xuất bản bộ sách biên khảo Luận về NỀN VĂN HOÁ TỔNG HỢP của DÂN TỘC VIỆT NAM; tập I: Trước Ảnh Hưởng Tây Phương. (Tập II, Sau Ảnh Hưởng Tây Phươngsẽ ra mắt độc giả sau.) Ông cũng là hội viên sáng lập của Hội Việt Học.

        Vị khách mời thứ hai là giáo sư HCNhân. Cử nhân văn khoa, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Saigon, ban Việt Hán, GS Nhân trước đây phụ trách môn Việt văn tại trường trung học Nguyễn Trung Trực và các tư thục ở Rạch Giá. Từ năm 1973, ông là Hiệu trưởng trường Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Bắt đầu từ 1976 là năm ông sang định cư tại đây, ông đã hợp tác dạy tiếng Việt cho các lớp do Hội Hướng Đạo quản lý. Từ 1984 đến 1989, ông là ủy viên giáo dục của Liên Hội Người Việt tại Canada, có nhiệm vụ điều hợp một ủy ban soạn thảo chương trình cho các lớp Việt ngữ của các cộng đồng trong Liên Hội. Trong năm 1989, ông cùng BS Lâm Thu Vân đứng ra tổ chức các lớp Văn học Việt Nam, sau đó đổi tên là lớp Quê Hương Mến Yêu, dành cho lớp tuổi sinh viên, tại trụ sở cộng đồng Người Việt Quốc Gia, trong đó ông vừa phụ trách môn Văn học VN vừa nhận trách nhiệm điều hợp chương trình và chủ đề giảng dạy. Hiện tại ông là ủy viên trong hội đồng quản trị của Hội Khuyến Học và Phát huy Văn hoá VN. Trong khi đó ông vẫn thường xuyên làm nhiệm vụ thuyết trình viên và hoạt náo viên trong các sinh hoạt văn hoá giáo dục nghệ thuật do cộng đồng hoặc các hội đoàn bạn tổ chức.

        Theo chương trình, thời gian hội thảo được chia làm hai phần. Trong phần đầu Gs Long trình bày đề tài Sơ lược về Chính tả Việt ngữ Hiện đại dựa vào Ngữ âm học. Sau giờ giải lao là phần hai, trong đó Gs Nhân trao đổi với tham dự viên về việc dạy tiếng Việt.

        Trước khi thực sự đi vào đề tài của mình, Gs Long đặt vấn đề là chúng ta dạy trẻ viết đúng trước, đọc đúng sau, hay là đọc đúng trước, rồi viết đúng sau. Theo một vài tham dự viên, chúng ta nên dạy học sinh đọc đúng trước, rồi viết đúng sau, bởi vì đó là trình tự hình thành ngôn ngữ của con người—tiếng nói có trước, chữ viết có sau.

        Theo Gs Long, quả đúng như vậy, nhưng chỉ đúng ở thời gian khi con người bắt đầu biết dùng tiếng nói làm dụng cụ truyền thông. Lúc ấy muốn hiểu được nhau mỗi khi trò truyện, tổ tiên chúng ta chắc phải qui ước với nhau rằng mỗi âm hay chuỗi âm mang một ý nghĩa nhất định. Những thế hệ sau phải chấp nhận qui ước đó, và sau đó khi tìm ra chữ viết, họ cũng phải làm sao để chữ viết phản ảnh đúng cách phát âm đã có sẵn. Cho nên lúc đó phải đọc đúng trước rồi mới viết đúng sau.

        Nhưng đến thế hệ chúng ta, ngôn ngữ đó đã phát triển thành hệ thống ổn định và trở thành công cụ hữu hiệu để truyền bá tin tức văn hoá giáo dục của dân tộc. Do đó, chúng ta phải làm ngược lại trước kia, tức là dạy trẻ viết đúng trước, sau đó căn cứ vào cách viết đúng đó mà dạy học sinh đọc đúng. Tất nhiên khi viết đúng chúng ta vẫn phải tôn trọng qui ước đã có từ trước, ví dụ như bấy lâu nay chúng ta đã đồng ý với nhau rằng chữ trâu (động vật), chúng ta viết TR..., trong khi châu (đồ vật), chúng ta viết CH... Ngôn ngữ mà chúng ta dạy đây là ngôn ngữ chuẩn dựa vào sự chấp nhận của đa số dân chúng.

        Như tựa đề gợi ý, bài nói của Gs Long cho chúng ta biết những kiến thức căn bản về chữ quốc ngữ cũng như về những ký hiệu ghi âm tiếng Việt. Là văn tự chính thức của tiếng Việt hiện đại, chữ quốc ngữ (CQN) mượn chữ cái la-tinh để ghi cách phát âm.

        CQN là thứ chữ ghi âm (chữ viết ký hiệu cho cách đọc); đơn âm (mỗi vần là một chữ); không biến dạng khi nhiệm vụ ngữ pháp thay đổi (danh từ số ít số nhiều, động từ không chia theo ngôi,...); có nhiều dấu phụ (dấu mũ trên â, ô; dấu ngửa trên ă, hoặc móc câu trên ư, ơ; dấu gạch ngang trên đ), và các dấu ghi thanh (giọng—sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng). Tuy còn nhiều điều chưa hợp lý (ví dụ như một âm ghi bằng hai chữ cái khác nhau tuỳ trường hợp, nhiều dấu phụ gây trở ngại cho việc ấn loát, v.v.), nhưng CQN dễ học, chóng biết đọc, biết viết. Đây là điều rất thuận lợi cho việc đại chúng hoá giáo dục.

        CQN mượn 22 trong số 26 chữ cái la-tinh (không dùng j, f, w, z) để ghi tổng số 37 âm (14 nguyên âm và 23 phụ âm). Mỗi vần trong tiếng Việt được cấu tạo bằng một nguyên âm chính bắt buộc phải có, trước nó có thể có phụ âm đầu hoặc âm đệm chúm môi, sau nó có thể có bán âm hoặc phụ âm cuối.

        CQN có 6 thanh (giọng) là ngang (không dấu), sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Sáu thanh này là yếu tố không thể thiếu và rất quan trọng vì nó làm thay đổi nghĩa của một từ. Qui tắc về vị trí dấu thanh là ngay trên nguyên âm chính Nếu nguyên âm chính là nguyên âm kép (ia, ưa, ua) và vần không có phụ âm cuối thì dấu thanh để trên nguyên âm trước (ví dụ: múa, cửa); khi vần có phụ âm cuối thì đánh dấu thanh ở trên nguyên âm sau (ví dụ: vườn, ruộng). Trừ thanh nặng đặt dưới, các thanh khác đều ở trên.

        Trong luật thơ, hai thanh ngang (không dấu) và huyền được xếp vào loại thanh bằng, bốn thanh còn lại là thanh trắc. Gs Lê Ngọc Trụ, nhà nghiên cứu chính tả tiếng Việt, lại chia sáu thanh trên thành hai loại trầmbổng. Bổng gồm thanh ngang, hỏi, sắc; trầm là huyền, ngã, nặng. Ông nhận thấy rằng những từ ngữ đôi hoặc láy mà tiếng chính có nghĩa và tiếng kia tự nó không có nghĩa, thường có dấu thanh đi đôi với nhau (cả hai đều bổng hoặc đều trầm). Ví dụ: ngơ ngác (ngang đi với sắc), người đi nườm nượp (huyền đi với nặng); vất va vất vưởng (sắc đi với hỏi); thập thà thập thò (nặng đi với huyền). Ngoại lệ: ngựa xe tấp nập (sắc đi với nặng).

        Để kết luận phần trình bày của mình, GS Long hy vọng tới đây khi nước Việt Nam thống nhất về nhân dân (hiện tại mới thống nhất về lãnh thổ) và có một hàn lâm viện để qui định lại chính tả CQN một cách hợp lý và khoa học hơn, chúng ta sẽ có một ngôn ngữ tiêu chuẩn thống nhất làm công cụ truyền thông hữu hiệu cho mọi người dân Việt. Đó là một ngôn ngữ xứng đáng với một quốc gia có nền văn hoá lâu đời, hãnh diện đóng góp phần mình vào việc phát triển kho tàng văn hoá thế giới.

        Phần trình bày của Gs Long tuy có tính cách chuyên môn, tưởng như rất khô khan, nhưng không phải vì thế mà nó không mang lại nhiều điều bổ ích thích thú cho cử toạ, chẳng hạn như cách đánh dấu thanh, hoặc luật trầm bổng. Từ trước tới nay người viết bài thường đánh dấu ở vị trí bất kỳ, hơn là ở vị trí chính xác; nay xin sửa lại trong bài này, ví dụ văn hoá (chưa đúng), văn hoá (chính xác); cử toạ (chưa đúng), cử toạ(đúng hơn). Tiện đây, người viết cũng xin lưu ý quí độc giả có con em theo học tại trường SHTN là học sinh ở đây sẽ được dạy đánh dấu thanh tiếng Việt theo qui tắc nêu ra trong bài này.

        Buổi hội thảo sau đó bước sang phần hai là phần trình bày của Gs Hoàng Chiều Nhân. Giáo sư vào đề ngay bằng câu hỏi, “Chúng ta dạy cái gì trong lớp học?” Đa số cử toạ đều đồng ý rằng, một cách tổng quát, chúng ta truyền lại cho thiếu nhi những nét văn hoá cơ bản của người Việt, chẳng hạn như sự lễ phép, cách chào hỏi xưng hô, nếp sống gia đình, phong tục tập quán, v.v. Cụ thể hơn là chúng ta dạy đọc, viết tiếng Việt thông qua những câu, bài tập đọc, và những sinh hoạt ca hát vui chơi tập thể.

        Khi nhắc đến việc dạy phong tục, Gs Nhân đặt vấn đề là một số phong tục có đáng giữ lại không, chẳng hạn như bắt trẻ khoanh tay cúi đầu chào người lớn, vì theo ông, cử chỉ này trông có vẻ “khún núm, co rúm và mất tự nhiên”? Hoặc con cái phải nghe lời cha mẹ 100% như một bài tập đọc ngụ ý? Ông phản đối cách giáo dục này, vì theo ông con cái được dạy như thế sau này có thể không dám nghĩ khác hoặc mất đi óc sáng tạo.

        Cử toạ đồng ý, song cho rằng một cử chỉ lễ phép nếu được dạy đều khắp và mọi trẻ đều làm, chắc học sinh không còn ngượng nghịu mất tự nhiên khi phải thi hành trước người lạ. Đồng thời nhiều tham dự viên cũng đồng ý rằng chúng ta cần phải gắt gao, bắt buộc một chút lúc ban đầu, sau đó dần dần bỏ bớt là vừa. Vả lại, có cha mẹ nào muốn con cái mình sau này trở nên xấu xa đâu mà ép buộc chúng nghe lời dạy sai trái của mình bây giờ?

        Dạy văn hoá, theo Gs Nhân, chúng ta phải làm thế nào văn hoá VN phải mở ra với nhân loại, không phải đóng lại với cái ta. Ông thấy chúng ta nên rèn luyện nhân cách, hạnh kiểm học sinh, bằng cách chọn lựa bài đọc mà nội dung nêu lên được điều mình muốn truyền đạt, bằng một câu chuyện có tính cách luân lý đạo đức mà học sinh có thể đóng vai diễn lại. Từ đó học sinh có thể tự rút ra điều phải hoặc nên làm.

        Trong phần thảo luận về khó khăn trở ngại trong các lớp Việt ngữ, đại diện trường Quân Âm cho biết trở ngại lớn nhất vẫn là việc nhà trường không có được sự hợp tác của phụ huynh học sinh như mong muốn. Việc này đã làm nản chí thầy cô không ít. Riêng trường QÂ còn có khó khăn về phòng ốc—các lớp học chung trong một phòng lớn, chỉ có vách ngăn lưng chừng, nên thầy cô phải nói lớn, và vì vậy, sự ồn ào khó tránh khỏi. Ngoài ra, trường QÂ chỉ mở vào dịp hè, học sinh đi học không đều vì mắc đi nghỉ hè với cha mẹ, hoặc không muốn đi học trong khi chúng bạn đi chơi hè.

        Trường SHTN không có trở ngại về trường ốc vì các lớp đều có phòng học riêng biệt. Tuy nhiên, trong những giờ sinh hoạt hướng đạo cần chỗ trống lớn, học sinh và người hướng dẫn không được thoải mái lắm, vì phòng ốc không đủ rộng. Sự chuyên cần ở đây đỡ hơn vì trường mở suốt mùa đông qua đầu hè. Tuy vậy học sinh vẫn cần sự khuyến khích của phụ huynh cũng như lòng yêu trẻ nhiệt tình của thầy cô giáo mới đi học đều đặn được.

        Một khó khăn khác cho việc dạy tiếng Việt mà thầy cô trường SHTN nêu lên là việc trong lớp có học sinh lai. Những học sinh này thường không theo kịp bạn cùng lớp; nếu mẹ là người Việt thì tình trạng đỡ hơn. Về việc này cử toạ cho rằng nên mở lóp riêng biệt cho những học sinh dạng này. Một giới khác mà chúng ta nên quan tâm là lớp học sinh ở lứa tuổi sinh viên.

     Đúc kết phần hai của buổi hội thảo như sau:

1. Về nội dung, chúng ta dạy đọc, viết, hát tiếng Việt, thông qua những bài nói lên những nét văn hoá cơ bản của người Việt;

2. Về phương pháp, chúng ta nghiêm khắc lúc ban đầu, sau đó cởi mở, tiến tới thông cảm, thương yêu; làm nghiêm trước cả lớp, nhưng tìm hiểu để thông cảm đối với học sinh nào có khó khăn; đối xử đồng đều với mọi học sinh; đề cao và phát huy kỷ luật tự giác;

3. Về tài liệu, chúng ta chọn lựa bài có nội dung rèn luyện nhân cách, giúp học sinh tự tìm ra cái hay, cái phải, cái nên làm, phù hợp với văn hoá VN, nhưng không ngược lại văn hoá bản xứ;

4. Về tương lai, chúng ta cố gắng soạn thảo bộ sách giáo khoa tiêu chuẩn thống nhất cho tất cả những lớp dạy tiếng Việt, kêu gọi tổ chức, hội đoàn có quan tâm hợp tác và đứng ra mở những lớp cao cấp hơn và những lớp đặc biệt cho học sinh con lai, và cho lứa tuổi sinh viên, hoặc những lớp chuyên đề.

        Được biết đây là hội thảo đầu tiên loại này được tổ chức tại Montreal. Đại diện trường SHTN hy vọng rằng trong tương lai chúng ta sẽ có những buổi họp mặt định kỳ giữa những trường Việt ngữ vừa để trao đổi kinh nghiệm, vừa để thống nhất phương pháp cũng như tài liệu giảng dạy.

        Buổi hội thảo coi như thành công, tuy không được nhiều người tham dự như sự mong muốn của ban tổ chức.(năm-97)

                                                                          The man who can make hard things easy is the educator.

                                                                                                                                               Ralph W. Emerson

   

7. TẤM CHI PHIẾU LƯƠNG ĐẦU TIÊN TRÊN QUÊ NGƯỜI☺

        

Nhận được giấy tờ xuất ngoại, vợ chồng hắn mừng một phần và lo ba phần.

Hắn mừng vì nghĩ rằng mình sắp sửa được đi đến nơi “độc lập tự do hạnh phúc,” nơi vợ chồng hắn ít ra không phải lo chuyện ngay trước mắt làm họ ăn ngủ muốn không yên—chuyện thằng con lớn sắp tới tuổi “nghĩa vụ” 17. Đây có lẽ là chuyện đa số gia đình trong Nam phải để tâm sau tháng 4-75, nhất là từ khi xuất hiện những chiến dịch mới nạ của con cháu bác Đi-dép-lốp mang vào từ Hà Lội, bắt buộc dân chúng đi “dân công,” bóc lột sức lao động người dân thơ ngây trong Nam, như đi “thủy lợi,” “thanh niên xung phong,” và “nghĩa vụ quân sự.”

        Mừng ít, vì nếu không đi được, vợ chồng con cái hắn cũng ở “quê hương mình,” nơi cái gì cũng quen thuộc thân thương. Nhà cửa có sẵn, bà con chòm xóm gần gũi... Việc “nghĩa vụ” thì ai sao ta vậy; biết đâu khi đến tuổi thằng lớn phải đi thì người ta lại có chính sách khác?

         Với lại, so với dân số Saigon, hay cả Miền Nam, số người được “xuất khẩu” kiểu này vẫn là thiểu số. “Đa số dân ở lại họ cũng phải có cách gì để đối phó hoặc sinh sống chớ, chẳng lẽ họ chết hết hay sao? Mình phải theo số đông chứ. Có gì đâu mà mừng nhiều với vui lắm? Không lẽ vợ chồng mình không sống được?” hắn tự an ủi.

        Về sinh kế thì dù có khó khăn chắc rồi “Trời sinh voi sinh cỏ.” Hơn nữa, nhờ có biết đôi ba tiếng Hồng Mao, nói không mỏi tay, hắn có thể coi như một “thằng chột” trong xứ của “con cháu Bác” toàn là “mù,” có thể hành nghề “kèm tư gia” chui, tức là nghề gõ đầu trẻ không nằm trong luồng được “nhà nước ta” cho phép, kiếm đồng ra đồng , giúp mẹ đĩ nuôi đàn con nheo nhóc. Nếu không bị “công an khu vực” làm khó dễ, hù dọa hay bắt bớ, việc này chắc rồi cũng quen đi. Còn về dạy dỗ cái gì, hắn nghĩ, “Mình cứ việc bắt họ học thuộc lòng những câu tủ mà mà mình biết như Ai can du. Xin du tha cho mi! Nô xì-ta goe! Thanh kiu du! Guốc bay! Như vậy chắc cũng được chớ gì! Sau đó nghề dạy nghề, lo gì!”

        Hắn lo nhiều hơn, vì trong tư cách “người kiếm…bánh mì” của gia đình, hắn e ngại không biết mình làm gì nơi miền đất mới để nuôi nổi năm miệng ăn, gồm một con dzợdại khờ, ba đứa con khờ dại và một thằng “hắn” khờ khờ dại dại! Tuổi đời hắn lúc ấy không thấp—gần năm chục mùa xuân hạ thu đông nặng trĩu trên “đôi vai gầy!”

         Đã thế, ở quê hương mới, cái gì cũng khác—con người, ngôn ngữ, phong thổ, khí hậu, v. v., liệu vợ con hắn có thể thích ứng và hội nhập dễ dàng được không? Về khả năng sinh ngữ, vợ hắn thì coi như i-tờ-rít, còn hắn tuy mang tiếng là thầy giáo Anh dăng, hai người cũng chỉ thuộc lòng những chữ những câu như De-Nô, Uỳ-Nông, Thanh-kiu Méc-xi bố-cu là đại diện cho hai sinh ngữ chính thức Anh và Pháp của xứ họ sắp đến ăn nhờ ở đậu.

        Điều đáng lo hơn nữa là nghề ngỗng hai vợ chồng chẳng có; tài vặt cũng không. Tóm lại, vấn đề chính vẫn là vợ chồng hắn làm gì để có thể kiếm ra đủ tiền trang trải mọi chi phí sinh hoạt gia đình hàng ngày mà hắn nghe nói rất đa dạng phức tạp và đều phải trả bằng đô?

         Hồi nào đến giờ, tuy là trai tráng nhưng hắn chuyên sống dựa dẫm: lúc nhỏ thì nhờ tới thầy bu, lớn lên thì cậy nơi cậumợ, lập gia đình thì trông ở mẹ cha, thậm chí khi đi cải tạo thì cũng lại phải dựa vào ba má! Sự kiện này khiến tinh thần ỷ lại ăn sâu trong đầu óc hắn và làm nhụt “chí phấn đấu” của hắn rất nhiều. Hơn nữa, với “ngoại hình” của một người “đàn ông trời bắt xấu”: răng hô, mũi tẹt, trán vồ, mắt hí, hắn luôn luôn mang mặc cảm cảm tự ti, nặng khẩm tinh thần chủ bại. Và kết quả sau cùng là hắn hầu như không còn sự tự tin nào ở khả năng cũng như “nhan sắc” của mình; từ đó hắn trở nên nhút nhát e dè, lúc nào cũng mặc cảm yếu kém thua thiệt.

        Làm gì? Có ai mướn không? Lương có đủ sống không? Mấy đứa nhỏ học hành thế nào trong ngôn ngữ mới? Nhà cửa? Quần áo mùa đông tuyết giá? Xe cộ đi lại? ... Và hàng trăm cái thắc mắc lo âu đại loại như vậy xoay vòng vòng trong đầu vợ chồng hắn, làm họ chẳng mấy yên tâm trong những ngày tháng chờ đợi lên đường. Hai người trông hốc hác như kẻ ốm đói trong ngày ra đi cũng vì thế.

        Họ định cư tại thành phố Mông-lệ-an, một thành phố lớn của tỉnh bang Quebec là nơi dân số nói tiếng Phá-lang-xa chiếm đến 80%. Riêng tại thành phố này, tiếng Hồng Mao vẫn được dùng đến nhiều vì sinh hoạt thương mại du lịch quốc tế rất phát triển. Nhu cầu học tiếng Anh vì thế chắc hẳn phải có, nhất là khi thành phố này được đa số di dân thuộc đủ các nước trên thế giới xem là nơi đất lành chim đậu.

        Mặc dù thế, hắn nghĩ là hắn khó có thể kiếm một chân kèm trẻ tại đây để kiếm sống qua ngày như ở quê nhà. Lý do đơn giản là vì dân muốn học hỏi chắc không mấy tin tưởng ở một chàng da vàng khè mắt đen thui mũi xẹp lép, dạy dỗ chỉ bảo họ nói đọc viết ngôn ngữ của mấy ông da trắng nhách mắt xanh lè mũi cao ngòng! Hơn nữa, hắn đã chán cái nghề godautre này lắm rồi. Các cụ ta chẳng nói nghề dạy học bạc bẽo là gì!

        Trong tình huống như thế, hắn hạ quyết tâmđi xin làm thợ tay chân. Với lại hắn cũng muốn nhân dịp này tìm hiểu xem bọn tư bản thực dân thi hành chính sách người bóc lột người triệt để đến mức độ nào, như hắn đã được tuyên truyền nhồi sọ hàng ngày trong trại cải tạo cũng như ngoài xã hội sau tháng 4 hắc ám, năm 1975 mờ mịt.

        Ở cái xứ tư bản chó ăn thịt bò hăm-bớ-gơ, gà ăn bánh mì hót-đoóc này, làm thầy mới khó, làm thợ thì không, nếu người xin việc chấp nhận lao động chân tay. Hắn nhất định là chấp nhận thôi, bởi vì thật sự hắn chẳng có chọn lựa nào khác khi bắt đầu cuộc sống tha hương cầu thực tại xứ người. Bụng đói đầu gối cũng phải bò là vậy.

        Đọc mục cần người trên báo chí, hắn thấy có nhiều công việc hắn có thể làm được. Song vấn đề chính là liệu người ta có mướn không khi biết hắn không có tài cán gì đặc biệt, trong khi khả năng sinh ngữ lại rất giới hạn, và ngoại hìnhchẳng mấy bắt mắt? May mắn thay, hắn được một người quen giới thiệu một nơi cần thợ không cần kinh nghiệm ban đầu, chẳng đòi chữ nghĩa nhiều. Chỗ này cũng không yêu cầu phải có ngoại hình coi được, nhưng đòi hỏi hắn “phải dưới năm mươi” mới nhận! Chút xíu nữa là hắn không có điều kiện sau cùng, bởi vì lúc ấy tuổi hắn suýt soát con số nửa chừng xuânnày. Thế là hắn trở thành một công nhân của xưởng chuyên sản xuất ví, bóp, xách tay nam nữ, ngay trong tháng thứ hai cư ngụ trên đất khách quê người!

        Hắn còn nhớ hôm đầu tiên đứng ngoài cửa phòng ông giám đốc phân xưởng, chờ hoàn tất thủ tục giấy tờ. Công nhân cũ vào hãng thấy người lạ đứng lớ ngớ, nhìn hắn với con mắt mà hắn có cảm tưởng như thầm trêu ghẹo, “Ê! Ê! Lại một con nai tơ nữa đến xin để được bóc lột !” Hắn rất ngượng nghịu, cảm thấy chân tay thừa thãi, mặt nóng bừng bừng, giống như anh hề trên sân khấu thấy cử toạ im phăng phắc, chẳng ai cười hoặc vỗ tay, sau câu chuyện tiếu lâm ăn ý nhất mình vừa trình bày xong.

        Một lúc sau, người ta trao cho hắn một thẻ công nhân bằng nhựa và hướng dẫn hắn sử dụng thẻ để ghi giờ ra vào hãng, cũng như số giờ làm việc trong tuần, bằng cách xẹt một phần thẻ qua một khe hở của đồng hồ bấm giờ đặt tại lối vào phân xưởng. Tại đây đã có một số công nhân đứng đợi tới phiên mình đút cạc.

        Khi đến lượt hắn, không hiểu sao cái đồng hồ không chịu phát tiếng kêu “cờ-rụp” chứng tỏ đã ghi nhận như ở những người đi trước. Hắn làm lại lần thứ nhì, cái đồng hồ chết tiệt vẫn không chịu ô-kê, làm hắn rất lúng túng. Trong khi đó mấy người phía sau đã lên tiếng càu nhàu khó chịu vì tay thợ lạ hoắc này gây chậm trễ; sự kiện này khiến hắn càng lóng cóng và sượng sùng. Hắn chưa biết xử trí thế nào thì may thay một bàn tay ai đó giật phăng cái thẻ trên tay hắn và mau lẹ làm dùm hắn—“cờ-rụp!” chiếc đồng hồ kêu lên tức thì, giúp hắn thoát nạn.

        Khi tiếng chuông điện báo hiệu ngày làm việc bắt đầu, hắn được người cai, một đồng hương với hắn, dẫn đến một “trạm làm việc.” Bằng tiếng mẹ đẻ của hắn, ông ta hướng dẫn cách vận hành của dụng cụ đồng thời thực hành ngay trước mắt cho hắn thấy. Qua cách trình bày của viên cai, hắn thấy công việc cũng đơn giản nhẹ nhàng, tuy hắn phải đứng suốt thời gian làm việc.

        Đó là một loại máy thô sơ, vận hành bằng bàn đạp chân để điều khiển hai ngàm ép mép những mẫu ví có bôi keo sẵn thành hình cái ví, trước khi nó được đưa sang cho đám thợ may hoàn thành sản phẩm. Mặc dù đã hiểu thấu đáo lời hướng dẫn cũng như được quan sát việc thực hành, không hiểu sao hắn rất lọng cọng khi được người cai chuyển lại dụng cụ để hắn làm một mình, trong khi ông ta đứng quan sát chỉ bảo thêm nếu cần. Bản chất hắn vẫn thế—rất ngượng nghịu khớp sợ khi làm gì mà có người nhìn!

        Chẳng thế mà có đôi ba lần chân hắn trượt bàn đạp, khiến xương ống quyển đập vào thanh sắt đau thấu trời xanh! Hoặc một vài lần khác, mấy đầu ngón tay bị hai ngàm sắt ép xuống đau điếng trong khi chân thì cố đạp mạnh thêm, thay vì thả chân ra! Giá không có ai bên cạnh chắc hắn đã hét lên vì đau đớn!

        Những giờ phút vụng về quê một cụcấy rồi cũng qua đi. Đến cuối ngày, hắn coi như quen với dụng cụ, phối hợp nhịp nhàng giữa tay và chân: hai tay đưa miếng da vào ngàm, giữ đúng vị trí, chân mặt đạp cần vận chuyển, ấn xuống vừa phải và thả ra đúng lúc. Nhờ đó số lượng sản phẩm làm ra trong một giờ tăng dần; không những thế phẩm chất cũng rất tốt. Những ngày sau đó nâng cao tay nghề của hắn rất nhiều, đồng thời tăng thêm niềm tự tin trong hắn đáng kể.

        Sang tuần lễ sau đó, “trình độ chuyên môn” của hắn tăng lên rõ rệt; bằng chứng hùng hồn nhất là số lượng ví hắn cho ra trong một giờ tăng lên bằng hoặc hơn số lượng của nhiều tay thợ cũ lâu năm. Giờ đây hắn nghĩ hắn có thể nhắm mắt cũng có thể điều khiển được dụng cụ, hoặc có ông cai đứng cạnh hắn cũng chẳng còn lúng túng! Ngoài ra, hắn cũng cảm thấy bớt xa lạ lạc lõng trong đám công nhân cũ sau khi bắt đầu làm quen và nói chuyện với một vài công nhân khác cùng làm một việc như hắn. Hắn cảm thấy tự tin và bạo dạn lên nhiều trong môi trường lao động mới; điều này khiến hắn phấn khởi hồ hởi và bớt lo lắng đi rất nhiều. “Hoá ra làm thợ cũng không đến nỗi nào,” hắn nghĩ bụng.

        Nhưng có điều làm hắn vui nhất có lẽ là tin do ông cai chuyển lại: hắn sẽ được trả lương trên mức tối thiểu do chính phủ qui định cho những thợ mới vào! Hẳn là ông ta thấy được “tiềm năng” làm việc của tên thợ mới này, thông qua số lượng và chất lượng sản phẩm hắn làm ra hàng ngày và đã đề nghị trên trả lương cho hắn theo mức ấy. “Mình may mắn gặp ông cai đồng hương tốt bụng quá. Mình phải có vài lời cám ơn ông ta mới được,” hắn tự nhủ.

        Hôm Thứ Năm của tuần lễ thứ hai đến với hắn trong tâm trạng hơi khác, bởi vì hắn được biết công nhân thường được phát lương vào ngày này. Hôm nay hắn đi làm với sự trông ngóng rất vui. Sau giờ ăn trưa bắt đầu làm việc lại ít lâu, ông xếp phân xưởng cầm một xấp phong bì có chi phiếu lương, đi từng bàn trao cho công nhân.

        Ở VN hắn cũng đã từng đi làm và lãnh lương tháng. Từ công tư chức sang quân đội, chưa chỗ nào phát lương cho hắn bằng ngân phiếu; đâu đâu cũng trao cho hắn một xấp tiền mặt, buộc dây thung, và bắt ký tên! Khi đưa tay nhận tiền, hắn cảm thấy bình thường như mọi sự trao đổi mua bán khác. “Mình bỏ sức lao động, người trả ta một số tiền công. Thế thôi!” hắn nghĩ. Số lương cố định này, nhất là từ thời kiệm uớc trong thập niên 60 cho đến khi đứt phim, thường không đủ cho gia đình hắn trang trải chi phí hàng tháng, nên hắn phải dựa dẫm gia đình bố mẹ. Sau 1975, tình trạng còn tệ hại hơn nhiều—lương cán bộ công nhân viên chức chỉ đủ tiêu trong mấy ngày! Mặc dù vẫn mong đến ngày lương, hắn có vẻ xem thường món tiền này lúc ấy, bởi vì nó chẳng đủ đâu vào mấy đâu.

         Nhưng cái mong đó rõ ràng là không giống ở đây xứ lạ quê người, vì có nhiều cái khác. Trước hết, thợ thuyền ở đây thường được trả lương hàng tuần hay mỗi nửa tháng, bằng chi phiếu để trong phong bì dán kín hoặc để hở. Khi nhận, thợ thuyền chẳng phải ký nhận gì cả. Chi phiếu gồm hai phần: một phần là ngân phiếu ghi lương mang về nhà, đến ngân hàng lãnh ra hoặc ký gởi lại; phần kia ghi những chi tiết như tổng số giờ làm trong tuần, những mục đã khấu trừ vào lương như thuế lợi tức, quỹ hưu bổng, đóng góp y tế, v.v., để vào hồ sơ lưu cá nhân ở nhà.

        Tiền lương được trao trang trọng và kín đáo như thế làm cho thợ thuyền có cảm giác được tôn trọng như một con người và đối xử tử tế. Đối với một công nhân như hắn, một người đến từ xứ lạc hậu mọi mặt, cách đối xử như vậy không khỏi gây ấn tượng tốt ngay phút đầu—hắn rất hãnh diện và sung sướng nghĩ tới phút cầm trong tay tấm chi phiếu lương đầu tiên tại xứ này.

        Hãnh diện và sung sướng bởi vì từ đây hắn có thể tự kiếm sống, dù khó khăn là tạm thời, thuận lợi là cơ bản, không phải dựa dẫm vào ai, khiến hắn có thể từ từ gột rửa được mặc cảm ăn bám bấy lâu nay, và cuối cùng giúp hắn lấy lại được niềm tin nơi chính mình. Bà xã hắn rồi cũng đi làm công nhân, dù tất nhiên bà ấy thì chỉ được lương tối thiểu lúc mới vào. Gia đình hắn lúc đó, với hai đầu lương, chắc chắn sẽ sống được tương đối thoải mái, nhất là khi vật giá tại đây không quá đáng so với lương thợ thuyền. Với cách ăn xài dè sẻn kiểu ở quê nhà, vợ chồng hắn nhất định chẳng phải lo “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm” mà vẫn đói nhăn răng như ở quê nhà!

        Trong tình hình đó, gia đình hắn sẽ mau chóng đi vào cuộc sống ổn định ở xứ đất lạnh tình nồng này—nhà ở đầy đủ tiện nghi thích hợp với khí hậu khắc nghiệt, tuy là ấp đi thuê chật hẹp; vợ chồng đi làm đều đặn, dù ở mức lương khiêm nhường; con cái học hành trường công không tốn kém bao nhiêu; chiếc xe cũ người quen để lại còn dùng được dăm ba năm nữa. “Với đà này, chẳng mấy chốc gia đình hắn sẽ an cư lạc nghiệp thôi,” hắn tự nhủ, lòng rộn rã niềm vui.

        Biết rằng trước sau thì rồi ông cai cũng sẽ tới chỗ mình, nhưng hắn vẫn hồi hộp chờ đợi. Để tự trấn an và che dấu sự hồi hộp, hắn cố tâm chú ý vào công việc. Giá có ai đứng cạnh lúc ấy, người ấy có thể nghe tiếng tim hắn đập thình thịch trong lồng ngực!

        Lúc ông xếp đến chỗ hắn làm việc, hắn vẫn chúi mũi vào miếng da, làm bộ như không biết. Ông ta đánh tiếng hỏi có phải tên hắn không, khi giơ trước mặt hắn cái phong bì trắng có cửa sổ trong suốt cho thấy tên hắn. Bị kích thích vì sự mong đợi cũng như óc tò mò, hắn đưa tay đón nhận ngay và mở vội phong bì không dán, liếc vào trong, quên cả cám ơn ông cai còn đứng đó nhìn hắn với cặp mắt dò xét chờ đợi.

        Con số lương, tuy còn rất khiêm nhường ở thời điểm ấy, như nhẩy múa reo vui trong mắt hắn. Hắn nghĩ tối hôm ấy trong bữa cơm gia đình hắn hẳn sẽ vui lắm—vợ hắn ríu rít hỏi được bao nhiêu; mấy thằng con líu lo muốn biết hắn lãnh lương chưa... Tất nhiên hắn sẽ trả lời vui vẻ mọi thắc mắc, khi nghĩ tới tấm chi phiếu lương trong túi áo.

        Món tiền đầu tiên này, kết quả lao động của hắn trong tuần lễ làm việc đứng mỏi chân, tất nhiên không bằng của thợ lâu năm, nhưng cũng đủ cho gia đình hắn ăn tiêu ít ra trong tuần, còn dư chút đỉnh. Hắn nghĩ với số dư này, vợ chồng hắn sẽ đi chọn mua ngay cho mấy đứa con vài món đồ chơi giá cả vừa phải, như hắn đã hứa trước đó.

        Về đồ chơi, con cái hắn hoàn toàn thiếu vắng từ nhỏ. Ở quê nhà vợ chồng hắn chạy gạo hàng ngày muốn bở hơi tai, còn hơi sức hay tiền bạc đâu mà nghĩ tới đồ chơi cho con cái. Hắn còn nhớ, trước khi “ra đi tìm đường cứu nước,” một người bạn đã cho các con hắn mấy món đồ chơi cũ. Mặc dù chúng đã trầy xước, méo mó, thiếu bộ phận, mấy đứa vẫn tranh nhau thiếu điều muốn choảng nhau và rồi khi có được trong tay thì mân mê nâng niu trân quí như của gia bảo!

        Hoặc có những khi đi ngang cửa hàng đồ chơi, mấy thằng con nài nỉ đứng lại để chúng nhìn cho đã thèm. Mấy đứa nhỏ thân hình gầy gò, ăn mặc đơn giản, mắt mở lớn, đứng chết trân trước gian hàng như bị thôi miên, trước đám đồ chơi đủ loại, màu sắc sặc sỡ mời gọi, vừa chỉ trỏ vừa nói với nhau, “Em thích cái đó đó!” “Anh thích cái kia kìa! Khi nào bố mẹ có tiền….” Hai vợ chồng nhìn đám con, rồi nhìn nhau với ánh mắt đầy xúc động thương cảm xót xa, lòng quặn đau như thắt. Nắm tay lôi dắt các con đi, họ khóc thầm, tự trách sự bất lực của mình. “Ừ, khi nào bố mẹ có tiền…” hắn lẩm bẩm nhắc lại lời thằng con lớn.

        Tưởng tượng cảnh vợ chồng hắn nhìn thấy mấy đứa con, nét mặt rạng rỡ vui mừng, vừa nâng niu món đồ chơi mới trong tay, vừa líu lo bình phẩm vật sở hữu riêng đầu tiên của chúng sau bao nhiêu năm thèm thuồng mong đợi, hắn thấy dâng lên trong lòng mối cảm xúc rạt rào.

        Bỗng nhiên cảnh vật trước mắt hắn nhoà đi. Bóng tối ánh sáng lẫn lộn lung linh trong không gian trước mặt. Đưa bàn tay vẫn còn cầm chiếc phong bì lên dụi mắt, hắn cảm thấy cái gì ươn ướt trên tay, và một vài giọt chất lỏng âm ấm lăn trên má.

        “Ủa, sao anh bạn lại khóc? Có chuyện gì vậy, anh bạn?” có tiếng ai hỏi bằng tiếng Anh.

        Dụi mắt xong và định thần, hắn quay lại. Thì ra ông xếp vẫn đứng đó, nhìn hắn với con mắt thắc mắc dò hỏi. Chẳng biết nói hay làm gì để chữa thẹn, hắn lí nhí ấp úng :

        “Dạ, dạ…không…không…có gì. Cám ơn ông rất nhiều!” (mười hai-98)

☺Bài này có phần chính bằng tiếng Anh đăng trong nhật báo The Gazette, ngày 5-9-1993.

 Xin xem ở Phần Ruột Dư.

8. CHÚNG TÔI THAM DỰ TRẠI HÈ MÃN KHOÁ HỒNG ĐỨC

(24 và 25 tháng 6, năm 2000)

(bài của một phụ huynh học sinh)

Đôi lời giới thiệu về danh xưng Hồng Đức.-Tên gọi đầy đủ là Trung Tâm Văn Hoá Giáo Dục Hồng Đức. Danh xưng Hồng Đức được đa số thành viên chọn theo lời đề nghị và cố vấn của một số cựu giáo sư Việt hiện cư ngụ tại Montreal. Trung tâm này thoát thân từ Trường Sinh Hoạt Thiếu Nhi Việt Nam do nhóm Ca đoàn Nhạc Việt khởi xướng và quản lý từ khoảng năm 1994. Khoảng cuối năm 1999, do nhu cầu phát triển trong thế kỷ mới, và do những đòi hỏi phải duy trì phát huy văn hoá Việt tại hải ngoại, Ca đoàn Nhạc Việt (CĐNV) và Trường Sinh Hoạt Văn Hoá Việt Nam (TSHVHVN, tên mới của trường nói trên) được gom lại và đặt dưới sự quản lý thống nhất của một trung tâm có danh xưng như trên. Đây là một tổ chức vô vụ lợi, có tư cách pháp nhân, do một Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) điều hành. HĐQT này do thành viên của Trung Tâm bầu ra vào tháng 3 năm nay. Chủ tịch của HĐQT nhiệm kỳ dầu tiên 2000-2002 là Bác sĩ Lại Thế Hưng. Trụ sở tạm thời của Trung Tâm là tư gia của BS Hưng, 1495 Séville, Brossard, J4X 1J3, đt (450) 465-5944. [Tham chiếu Tờ Thông Tin, số 2, ra tháng 4-2000, của Trung Tâm Hồng Đức.]

***

        Hai đứa con chúng tôi, học sinh lớp sơ cấp 2 và 5, tranh nhau đưa cho chúng tôi xem Thông Báo 1 của Ban Tổ Chức (BTC) Trại Hè Mãn Khoá năm nay. Chúng tôi có biết về Trại hè này vì đã được nhà trường giới thiệu và Ban Đại Diện (BĐD) Hội Phụ Huynh Học Sinh (PHHS) nhắc lại trong Thư Ngỏ 5, ngày 14-5, gởi PHHS. Tuy vậy, trước sự sốt sắng của chúng, chúng tôi cảm thấy vui lây và cũng muốn xem ngay thông báo nói cái gì. Thì đây là Thông Báo 1, ngày 7-5-2000, gởi thành viên Trung tâm và PHHS:

        Mỗi năm Trường Sinh Hoạt Văn Hoá VN, thuộc Trung tâm Văn Hoá Giáo Dục Hồng Đức, chọn một chủ đề cho niên học. Trong niên học năm 2000, năm cuối cùng của thế kỷ 20 trước khi chúng ta bước sang thế kỷ 21, chủ đề được chọn là thiên nhiên. Thật không có gì hợp thời cho bằng, bởi vì như chúng ta đều biết, càng ngày càng nhiều nhóm quần chúng, nhiều quốc gia đứng lên hô hào kêu gọi ủng hộ khuynh hướng trở lại cách sinh hoạt gần lại với Mẹ Thiên Nhiên, đồng thời bảo vệ và phụng dưỡng Mẹ một cách hợp lý và hiệu quả hơn, để Mẹ luôn luôn khoẻ mạnh mà tiếp tục nuôi sống những thế hệ con cháu chúng ta. Nhiều khoa học gia, chuyên gia về thực phẩm đã dấy lên những phong trào khuyến khích chúng ta sống gần thiên nhiên hơn, dùng thức ăn nuôi trồng bằng phương pháp thiên nhiên, không sử dụng phân bón hoá học hoặc thức ăn gia súc có kích thích tố. Một dấu hiệu cụ thể nhứt cho xu hướng này là sự xuất hiện của nhiều cửa hiệu, quầy hàng chuyên bán mua bán loại thực phẩm hợp thiên nhiên này.

        Để hưởng ứng một phần xu hướng đó, năm nay Trường tổ chức Trại Hè Mãn Khoá, kéo dài hai ngày, trong đó gồm luôn Lễ Mãn Khoá cho niên học 2000. Trại chiếm một khu đất rộng lớn có đồi núi sông hồ, trong đó đường xá nhà cửa được thiết kế với đầy đủ tiện nghi thích hợp để giúp trại viên sinh hoạt vừa gần thiên nhiên vừa thoải mái. Trại có đầy đủ phương tiện để chúng ta có thể tham gia hoặc giải trí bằng những môn thể dục thể thao như bóng đá, bóng rổ, bơi thuyền, bơi lội, v. v., có huấn luyện viên của Trại hướng dẫn giúp đỡ. Bên cạnh đó, những hướng dẫn viên của Trường cũng bày những trò chơi để con em chúng ta và chính chúng ta có thể chơi đùa với nhau trong tinh thần tập thể. Đặc biệt là buổi lửa trại ban đêm, trong đó chúng ta và con em vừa tham gia vừa thưởng thức những trò chơi hoặc tiết mục văn nghệ tự biên tự diễn của học sinh hay của trại viên khác. Đây là một dịp tốt để trại viên vui chơi trong khung cảnh hoàn toàn thiên nhiên.

        Tuy gọi là trại, song chúng ta không ở trong lều vải ngoài trời mà ngủ trong nhà có giường tầng cá nhân; chúng ta cũng không ăn dưới bầu trời xanh mà dùng cơm trong một loại nhà hàng tự phục vụ có bàn ghế đàng hoàng. Nói tóm lại, trại viên không phải lo lắng nhiều về ăn ngủ trong thời gian ở trại, để dành thời gian cho Lễ Mãn Khoá, buổi lửa trại và những trò chơi giải trí khác...

        Nhận thấy đây là một cơ hội rất tốt để con em chúng ta chung sống vui chơi với bạn bè trong một thời gian dài hơn những ngày đi học, hầu làm quen với sinh hoạt tập thể và phát triển tinh thần đoàn kết hợp tác hoà đồng trong cộng đồng của mình sau này, chúng tôi thiết tha kêu gọi quí anh chị thu xếp thời gian để tham dự trại này cùng với con em...

        Trước ngày đi trại một tuần, chúng tôi lại nhận được Thông Báo 2, cho biết những chi tiết cụ thể và những đồ dùng cần thiết phải mang theo. Vợ chồng chúng tôi rất mong muốn có những sinh hoạt tập thể loại này cho con cái mình và chúng cũng thích tham dự, cho nên chúng tôi thu xếp chuyện gia đình để đi cùng với hai đứa con.

        Thế là sáng thứ bẩy 24-6, gia đình chúng tôi gồm 4 người lớn nhỏ, mỗi người một túi đeo lưng gọn nhẹ đến địa điểm tập trung là trường Marianopolis, theo như thông báo. Ra khỏi ấp chúng tôi bước ngay vào một buổi sáng khi ánh nắng ban mai đã nhuộm sáng đường phố vắng người, sưởi ấm không khí tinh khiết chưa bị khuấy đục vì ít xe cộ lưu thông. Bầu trời trong xanh thỉnh thoảng điểm đó đây những cụm mây trắng, trông như những chùm bông gòn phất phơ trên đầu hàng cây đầy lá xanh thẫm bên đường. Một làn gió nhẹ thổi rì rào qua khe lá, mang theo cái lạnh nhẹ nhàng mơn trớn, còn sót lại của mùa đông đã qua.

        Chúng tôi đến nơi đúng giờ hẹn trong thông báo 7 giờ sáng, thế mà cũng đã có nhiều người đứng lố nhố giữa đám xe cộ trước cửa sân trường. Kẻ bị, người bao; ông áo lạnh, bà áo len; anh quần dài, tôi quân cụt; chị nón rộng vành, em mũ lưỡi trai.  Mỗi người một vẻ, mỗi người một màu, tuy đứng ngồi rải rác, lộn xộn trong khu vực, nhưng tạo thành một quanh cảnh sinh động vui mắt. Và vui tai nữa, bởi vì người lớn cũng như trẻ em, thầy cô cũng như học trò gặp nhau chuyện trò huyên thiên vui như Tết.

        Sau khi BTC thông báo cho biết ai đi xe nào, mọi người lục tục kẻ xách bao bị, người mang hành lý của mình theo những anh chị trưởng xa lên xe. Kỳ đi chơi này đỡ lộn xộn hơn kỳ năm ngoái, bởi vì mỗi người tham dự, dù 6 tuổi hay 60 tuổi, đều có phần ghế ngồi riêng. Có trục trặc chăng là do lầm lẫn khi xếp chỗ, một vài gia đình bị phân ly, chồng ở một xe chở học trò, vợ ngồi một xế đưa học sinh! Ví dụ như vợ chồng chúng tôi: tôi ở xe số 2; oan gia hai của nợ ở cái số 4.

        Nhưng có lẽ điều làm mọi người sốt ruột, bực mình nhất là sự kiện xe số 1 chưa chịu đến trình diện. Việc này làm bà Trưởng BTC chạy tới chạy lui như gà mắc đẻđể liên lạc với mấy bác tài hiện diện, hầu trả lời cho hàng trăm con người thắc mắc nhao nhao chung quanh. Ông phó ban, kiêm trưởng xa số 1 (nghe đâu ông này là đại diện Hội PHHS), mặt mày vốn đã chẳng mấy tươi vui đẹp lão, bị hành khách chất vấn, lúc này trông càng khó đăm đăm, nhăn nhó như khỉ ăn gừng! Cuối cùng khi BTC quyết định dồn hành khách lên 3 xe và đang sắp xếp lên xe thì xe số 1 dẫn xác tới. Lúc ấy gần 9 giờ!

        Hỏi ra mới biết là tài xế, một bà đầm kê-bếch-qua xinh đẹp, lái xe giữa đường xe hư, phải tìm cách trở về đổi xe khác. Thật là hoạ vô đơn chí: khi về đến bãi đậu xe tận Riu-xúyt, bà mới ngã ngửa phát giác là ông gác-dangiữ khoá mở cổng lại đi uống cà-phê sáng chưa về! Đến khi ông này tà tà đi về thì hơn một tiếng đồng hồ đã trôi qua.

        Dù đoàn xe, gồm 4 chiếc to và nhiều cái bé, chuyển bánh trễ khoảng hai tiếng đồng hồ so với chương trình dự trù, nhưng tất cả cũng đến địa điểm khoảng 10 giờ rưỡi. Đó là Camp De-La-Salle, trong vùng Saint-Alphonse-Rodriguez, cách Montreal khoảng 150 km, về hướng bắc. Trong khi di chuyển, các trưởng xa thông báo cho hành khách biết những chi tiết cần thiết cũng như vị trí của những nhà ngủ, nhà ăn, chỗ tập trung làm lễ mãn khoá, v.v. Nhờ vậy, ngay khi tới nơi mọi người ai vào nhà nấy, cất hành lý, chọn chỗ ngủ, một cách rất trật tự và nhanh chóng. Các nhà trưởng còn có đủ thì giờ để dán chương trình và giờ giấc sinh hoạt trong hai ngày tại trại, sơ đồ trại và danh sách trại viên trong mỗi nhà. Và cũng nhờ vậy mà mọi người tập trung đầy đủ vào nhà chơi rộng lớn, tên là Le Rendez-Vous, để làm lễ khai mạc trại lúc 11 giờ, như chương trình dự trù.

        Trong căn nhà tập họp hình chữ nhật, ba mặt không tường che, phía trước bục sân khấu kê sát tường cuối nhà là những băng gỗ dài; hai bên là những băng ngồi có bậc, loại dành cho khán giả theo dõi các buổi trình diễn. Học sinh các lớp ngồi ở những hàng đầu sát sân khấu, sau đó là PHHS và những trại viên khác.

       Buổi lễ bắt đầu bằng mấy lời chào đón của Bà Trưởng Trại. Theo Bà, đây là lần đầu tiên nhà trường tổ chức lễ Bế Giảng trong một khung cảnh thiên nhiên, dưới dạng trại hè, và như vậy rất phù hợp với chủ đề nhà trường đã chọn cho niên học này. Và cũng may mắn thay, hôm nay “là một ngày đẹp trời, thời tiết thật lý tưởng cho những sinh hoạt ngoài trời, trong một khung cảnh trời mây non nước thiên nhiên hài hoà,” bà nói tiếp. Thật vậy, bên ngoài dưới ánh nắng thủy tinh, hàng cây thông reo rì rào theo gió. Xa xa hơn, thấp thoáng qua rừng cây xanh là một mảng nước hồ nước loang loáng như thủy ngân, phản ánh những đám mây trắng lửng lơ nhàn hạ.

        Lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca Canada và Việt Nam trang nghiêm long trọng. Nhìn những học sinh trong sơ-miđồng phục trắng đứng nghiêm chỉnh, khuôn mặt hồn nhiên, đôi mắt long lanh hướng về 3 lá cờ Canada, Quebec và Việt Nam do 3 học sinh cầm giương cao, đứng ở phía trái sân khấu, đôi môi mấp máy cất tiếng hát, phát âm luôn 3 thứ tiếng đúng giọng, chúng tôi không khỏi xúc động, trong lòng dâng lên một niềm hãnh diện nơi thế hệ tương lai. Đây là thế hệ măng non, có đầy đủ thể lực và trí lực để sau này thay thế lớp tre già và chắc chắn sẽ làm rạng danh gốc Việt của mình nơi quê hương thứ hai này.

        Sau đó ông chủ tịch HĐQT của Trung Tâm Hồng Đức tuyên bố khai mạc trại và chúc tất cả trại viên những giờ phút vui tươi trong hai ngày sắp tới. Nhân dịp này ông trao tặng ông đại diện Hội PHHS một tấm plaque rất đẹp, trên đó có gắn tấm hình chụp toàn thể học sinh và thành viên của Trung tâm, gọi là để ghi nhận sự tiếp tay tích cực và sự hợp tác chặt chẽ của Hội PHHS đối với Trung Tâm. Ông đại diện cho biết ông như bị hụt cẳng, vì việc trao quà này không có trong chương trình dự trù từ trước. Đây là việc bất thường, vì bình thường chỉ có PHHS biếu xén thầy cô giáo, hiếm có trường hợp nhà trường quà cáp cha mẹ học trò. Nhưng đây là cái bất thường dễ thương!

        Trong tình hình đó ông đại diện được yêu cầu phát biểu. Trước hết ông chúc mừng tất cả học sinh đã nghe lời cha mẹ chăm chỉ đi học suốt mười mấy chúa nhựt vừa qua và hôm nay đáng được vui chơi giải trí trong trại hè này. Tiếp theo, trong tư cách đại diện PHHS ông cám ơn những PHHS đã tích cực đóng góp công của, giúp BĐD thực hiện được một số việc có tính cách vừa tiếp tay với nhà trường vừa ghi công thầy cô giáo. Đặc biệt ông nêu đích danh những PHHS đóng góp công của vượt cả sự yêu cầu của BĐD, trong đó người ta có nghe tên BS Lâm Thu Vân, Cố Vấn Đặc Trách Tổ Chức của Trung Tâm.

        Nhưng có những con người mà theo ông, chúng ta cần phải đặc biệt ghi ân. Đó là thầy cô giáo. Để bày tỏ một cách cụ thể lòng biết ơn của mình, PHHS thông qua BĐD gởi đến quí thầy cô mỗi người một món quà nhỏ. Và ông đã xướng danh từng thầy cô, mời lên đứng thành hàng ngang trước sân khâu, đồng thời kêu gọi từng PHHS xung phong lên nhận quà từ một phụ huynh trong BĐD, rồi tự tay trao cho cho thầy cô của con em mình, theo tên có ghi trên món quà.

        Chúng tôi được biết những món quà này do quí anh chị PHHS trong BĐD đi chọn lựa và một chị đã bỏ cả công lao và tâm hồn vào việc gói quà theo như chủ đề thiên nhiên. Nếu không thấy tận mắt, quí độc giả khó cảm nhận được cái đẹp mộc mạc của phần đóng gói này. Về điểm này, ông đại diện cho chúng tôi biết có một cô giáo, cho đến hôm chúng tôi viết bài này (khoảng hơn hai tuần sau ngày đi trại), vẫn chưa mở quà xem cái gì bên trong, vì cô ấy nói với ông, “Em thấy nó đẹp quá, chưa muốn xé rách bao, chỉ muốn để nhìn xem thôi!”

        Phần phát biểu sau đó của một học sinh Việt lớp 6 (10 tuổi) ra trường và một học sinh bản xứ (lớp Căn Bản Việt ngữ 1) không có gì đáng nói. Đáng nói chăng là sự kiện em bé Việt Nam nói tiếng mẹ đẻ y như trẻ em cùng tuổi sinh đẻ tại quê nhà; còn học sinh bản xứ nói tiếng Việt như Tây nói tiếng ta!

        Trước khi chấm dứt buổi lễ mãn khoá Bà Trưởng Trại thông báo một số nội qui trại và yêu cầu toàn thể trại viên hoan hỉ chấp hành, “hầu đem lại những giờ giấc vui tươi, lành mạnh, an toàn và đáng nhớ cho con em chúng ta và tất cả mọi người tham dự Trại Hè Hồng Đức 2000 này.”

        Buổi lễ thực sự chấm dứt với bài hát Việt Nam! Việt Nam!của Phạm Duy do toàn thể đồng ca. “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau....Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời....” là những lời ca đầy ý nghĩa vang vang cả hội trường, để lại ấn tượng rất đáng tự hào trong lòng người hiện diện.

        Giờ ăn trưa là từ 12 giờ đến 14 giờ. Vì số người đông nên BTC chia trại viên ra 3 nhóm A, B, C, đi ăn theo giờ cách nhau 40 phút. Tuy nhiên vì cách sắp đặt có quy củ của nhà ăn, nên việc này gần như không cần thiết.

      Đây là một loại nhà hàng thuộc loại phân nửa tự phục vụ, thực đơn mỗi bữa ăn đã được chọn sẵn. Thực khách sau khi lấy khay ngoài cửa, rê khay qua trước quầy trên kệ sắt, ngăn cách với mấy xoong thức ăn nóng hổi bằng một khung tủ kính, lấy những đĩa thức ăn trên mặt tủ mà mấy người phục vụ vừa múc ra, để vào khay, xong rê khay tới khu rau sống, trái cây và tráng miệng, chọn những thứ mình thích, cuối cùng sang một quầy khác có đầy đủ các loại thức uống, muỗng nĩa dao, khăn giấy, và rồi tự mang ra bàn ăn.

     Ăn xong, sau khi đã trút những thúc ăn thừa nếu có, khăn giấy, ly tách nhựa vào thùng rác miệng nhỏ kín đáo để sẵn trong phòng, khách tự tay mang khay chén đĩa dao muỗng ra khung cửa gần lối ra, giao cho nhân viên rửa chén đợi sẵn ở đó.

        Nhìn chung, cách phục vụ, số lượng thực phẩm, tính cách ngon miệng, tình trạng vệ sinh,..., đều đạt sự mong đợi của trại viên. Tuy nhiên, một số trại viên lớn tuổi có thể không thích thức ăn loại này vì đã quen món ăn Việt Nam hơn.

        Ba tiếng đồng hồ dành cho sinh hoạt ngoài trời sau đó đủ để trại viên, nhất là giới trẻ, học sinh các lớp, tham dự chèo thuyền, bóng chuyền, tennis, v. v. Học sinh được chia thành nhóm nhỏ, thay phiên chèo thuyền, đi kayak... PHHS nếu thích cũng có thể tham dự những sinh hoạt này. Những sinh hoạt dưới nước này đều có hướng dẫn viên của trại trông nom, thành thử chúng tôi nghĩ khó có thể có những điều đáng tiếc xẩy ra. Khi một thuyền nào đó đi quá xa, hoặc không biết cách chèo về bến, một xuồng máy của trại lúc nào cũng sẵn sàng chạy ra dẫn về, hoặc trong khu bơi lội, một cứu cấp viên ngồi trên ghế cao nghệu luôn luôn dòm chừng đám tắm dưới hồ.

        Chúng tôi nhận thấy những PHHS không tham dự các sinh hoạt trên, ngồi trên bờ bãi cỏ nhìn xuống bãi tắm và mặt hồ trải rộng trước mặt, ngắm cảnh, chuyện trò, hay đọc sách; một số khác tản bộ trong khu, dưới bóng cây mát mẻ. Hai thằng con của chúng tôi thích bơi lội, nên nhà tôi cũng phải gồng mình thay quần áo tắm xuống trông chừng các cậu. Bản thân chúng tôi không giỏi chịu lạnh nên đành phải đứng trên bờ, và tham dự bơi lội, chèo thuyền,..., bằng mắt! Bởi vì trời lúc này tuy có nắng nhưng nhiều mây, nhiệt độ thực sự không cao, cộng thêm những cơn gió rừng hơi mạnh, nên nhiều trại viên, trong đó có chúng tôi, cảm thấy lạnh, cần phải có áo khoác ngoài.

        Sau bữa ăn chiều là buổi lửa trại. Đây là một diễn biến được nhiều trại viên, nhất là những ai chưa từng tham dự lần nào, háo hức chờ đợi. Theo dự trù lửa trại kéo dài từ 8 giờ đến 11 giờ đêm, nhưng phải đợi đến 9 giờ BTC mới khai mạc vì trời còn quá sáng trước đó.

        Trong khi chờ đợi khai mạc lửa trại, trại viên cũng đã tụ họp chung quanh đám củi xếp dựng đứng thành hình tháp giữa sân cỏ rộng. Ở đây mọi người từ lớn chí bé làm mồi cho đám muỗi rừng háu đói. Xen giữa tiếng nói chuyện là tiếng đập muỗi hoặc lời than vãn về nạn muỗi đốt. Nghe nói có người bị muỗi chích, gãi đến chảy máu, và một cô giáo bị muỗi đốt đến sưng cả mí mắt đến ngày hôm sau!

        Khi tháp củi được đốt lên, ngọn lửa bùng sáng, đánh tan một vùng bóng đêm, đem hơi ấm đến mọi người, đồng thời đuổi bớt bày muỗi bu quanh. Để hâm nóng thêm nữa buổi lửa trại trong giờ đầu, anh quản trò cùng với một số phụ tá bày những trò chơi hướng đạo có những động tác đứng lên ngồi xuống.

        Nhìn chung những tiết mục giúp vui tối nay nói lên sự cố gắng lớn của học sinh tham dự và thầy cô hướng dẫn. Nếu có máy vi âm thì vở kịch Sự Tích Quả Dưa Hấu (lớp 5) hoặc Năm Ngón Tay (lớp 4) đã đạt kết quả mong muốn hơn; hoặc hai bản hợp ca của BĐD Hội PHHS đã đánh thức tâm hồn người nghe vì những lời đầy ý nghĩa của chúng [Nam Quan cho đến Cà Mau là nhà Việt Nam non nước tươi một màu (“Nhà Việt Nam” của Thẩm Oánh) hoặc Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người; Làm người huy hoàng phải làm người dân Nam (“Viêt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” của Nguyễn Đức Quang)]. Tiếc thay, vì không có máy vi âm, học sinh phải dùng loa cầm tay nặng nề và âm lượng không ổn định, nên lời nói của diễn viên lạc vào bóng đêm, hoà với tiếng nói chuyện và tiếng muỗi bay.

        Ngủ chung trong một nhà với những người lạ, dù chỉ trong vài tiếng đồng hồ, cũng là một kinh nghiệm khó quên. Đó là chúng ta sẽ được nghe nhiều loại tiếng ngáy khác nhau, tựa như nghe một bản nhạc hoà tấu, trong đó những nhạc cụ khác nhau phát ra âm thanh chỏi nhau! Bản thân chúng tôi may mắn được vào một phòng gồm những người dễ ngủ, nên khi vào phòng chúng tôi đã nghe một số vị ngáy nhỏ nhẹ êm đềm như điệu bờ-lu trầm buồn, hoặc to nhỏ đều đặn như điệu ­xì-lô rốc tình tứ, hoặc lên xuống nhịp nhàng như điệu van-xơ quay cuồng. Và chắc chắn khi ngủ chúng tôi cũng góp cung đàn lạc điệu của mình vào bản hoà tấu lạ lùng trong đêm thanh vắng này!

        Bạn bè chúng tôi không có được cái hên đó. Họ cho biết phòng họ có những tiếng ngáy lạ lùng hơn, ví dụ như có tiếng ngáy mà về âm lượng lẫn nhịp điệu nghe như tiếng xe bị ngộp xăng, hộc hộc lên mấy tiếng rồi tắt ngúm! Đã vậy, trong không gian tĩnh mịch người ta còn có thể nghe tiếng gãi sồn sột vì các chỗ muỗi đốt trong lúc dự lửa trại trước đó. Những vị khó ngủ hẳn phải khó chịu lắm khi phải thưởng thức một loại hoà âm giữa những tiếng động lạ lẫm kỳ quặc chói tai này.

        Sáng hôm sau, chúa nhựt 25-6, chúng tôi thức dậy sớm, và được chào đón bằng những hạt mưa lộp độp trên mái nhà, và tiếng tí tách trên nền đất ướt sũng. Đứng làm những động tác thể dục trong hàng hiên, chúng tôi có thể thấy hàng cây thông ủ rũ im lìm, cam chịu làm vật chuyển nước mưa lạnh lẽo, khuấy lên mùi ai ải ẩm thấp của đất khô thấm nước trộn với lá cây rừng mục nát. Xa xa một giải mặt nước hồ bàng bạc hiện ra giữa đám cây rừng xanh đậm, dưới bầu trời xám ngoét. “Trời này có lẽ mưa suốt ngày chăng?” chúng tôi nghĩ bụng.

        Thật vậy, sau khi chúng tôi ăn sáng xong trời vẫn mưa, có lẽ nặng hột hơn. Lễ Bế Giảng và Tốt Nghiệp Sơ Cấp từ 9 đến 10 giờ 30 được tiến hành trong nhà chơi lớn Le Rendez-vous. Đằng trước nhà này bi giờ đã có thêm một hàng chữ “Trại Hè Hồng Đức 2000” giăng toàn bề ngang, hợp với bong bóng màu buộc ở hai cột hai bên, khiến phòng hội trông có vẻ lễ hội vui mắt hẳn lên.

        Mặc dù trời mưa nhưng mọi người cũng tụ họp đầy đủ tại nhà hành lễ. Nhân dịp này, người ta được biết là trong niên khoá 2000, Trường Sinh Hoạt Văn Hoá Việt Nam đã có hơn 180 học sinh ghi danh cho các lớp Sơ Cấp, Trung Cấp, Căn Bản Việt Ngữ và Sinh Hoạt. Trong lễ này học sinh hoàn tất chương trình lớp 6,và học sinh giỏi các lớp khác được xướng danh và mời lên sân khấu trao chứng chỉ tốt nghiệp và huy chương vàng, bạc hay đồng có khắc huy hiệu nhà trường, thay vì giải thưởng nhất nhì ba như ở những trường khác.

        Ngoài những huy chương vừa kể, nhà trường còn có hai giải thưởng xuất sắc toàn trường, gọi là Giải Lê Quí Đôn dành cho bộ môn Việt ngữ, và Giải Hải Linh, dành cho bộ môn Nghệ Thuật. Được biết hai giải luân lưu đặc biệt này, mỗi giải là một cúp bạc lớn, dưới đế có phần ghi tên học sinh nhận giải, được đặt ra từ niên học trước, nhưng phải đợi đến niên học này Ban Giám Khảo nhà trường mới chọn được học sinh xứng đáng.

        Điều đáng nói ở đây là hai giải này trong niên khoá 2000 lại rơi vào một học sinh. Đó là em Nguyễn Bạch Tuyết, 10 tuổi, học sinh lớp 6 tốt nghiệp. Mặc dù sinh đẻ tại Montréal và theo học trường Tây, em nói và viết tiếng Việt không thua gì một em sinh đẻ tại VN, nên rất xứng đáng được giải này. Riêng chúng tôi nhận xét, sau khi đã được nghe em nói và đọc bài em viết, em chứng tỏ em còn hồn nhiên ngây thơ trong sáng, xứng với tuổi của em, hơn những em cùng trang lứa sinh đẻ tại Việt Nam là những em chỉ được nghe đọc những lời Bác Hồ, sặc mùi tuyên truyền xuyên tạc, hoặc làm những bài toán đố, đầy lòng căm thù chém giết, đại loại như “Chú bộ đội Giót giết được 3 giặc Mỹ, còn cô du kích Riêng chỉ giết được có 2 tên. Vậy chúng ta giết được mấy tên tất cả?”

        Đây chính là học sinh mà chúng tôi có nhắc ở trên trong phần nói về buổi lễ khai mạc trại. Có được nghe em hát những bài đại ý nói lên công ơn cha mẹ thầy cô giáo trong buổi lửa trại, với giọng trong trẻo cao vút, nhất là phát âm rõ ràng (tiếc rằng không có máy vi âm), chúng ta mới cảm nhận được sự xứng đáng của em khi lãnh giải về Nghệ Thuật. Chúng tôi tin chắc rằng tất cả chúng ta những ai còn tin tưởng ở tuổi trẻ Việt Nam, ở sự sống còn của văn hoá Việt tại hải ngoại, không ai không xúc động và hãnh diện nhìn em khệ nệ ôm hai cúpbạc đứng trên sân khấu cho mọi người vỗ tay tán thưởng. Riêng chúng tôi còn thầm ghen tị với cha mẹ của em nữa là khác!

        Một điều đáng nói nữa là trong niên học này Hội PHHS đặt ra thêm hai giải thưởng về Hạnh Kiểm Chuyên Cần cho mỗi lớp sơ cấp từ 1 đến 6. Theo ông đại diện, việc làm này nhằm khuyến khích học sinh trau giồi thêm đức tính lễ phép kính trọng người trên và chăm chỉ học hành. Cha ông chúng ta chẳng thường hay nhắc nhở Tiên học lễ, hậu học văn là gì? Ông cho biết ông rất vui mừng được xướng danh những học sinh được giải và mời các em lên sân khấu nhận giải từ những PHHS trao. Đây là những học sinh do thầy cô giáo các lớp liên hệ đề cử, sau khi đã nhận xét các em trong suốt thời gian khoá học, vì vậy các em rất xứng đáng. Ông cũng nói thêm là ông không có liên hệ họ hàng với bất cứ học sinh được giải nào nên việc chọn lựa đề cử của thầy cô coi như rất khách quan và trung thực.

        Buổi lễ chấm dứt bằng một màn chụp hình lưu niệm. Lúc này trời lại mưa lớn; những giọt mưa đập trên mái tôn nghe rõ mồn một. Ông thợ chụp hình phải chật vật khổ sở đứng ngoài mưa mới lấy được mấy tấm hình theo ý muốn.

        Theo chương trình, sau buổi lễ này là sinh hoạt ngoài trời như hôm trước và một trò chơi lớn dành cho toàn trại viên, cho đến 12 giờ ăn trưa. Nhưng tiếc thay, vì trời mưa nên tất cả mọi người phải sinh hoạt tại chỗ. Ở đây người ta mới thấy tài tháo vát của những anh hướng đạo trong hoàn cảnh này. Các anh đã bày ra những trò chơi tại chỗ giúp tất cả giải trí, quên đi trận mưa rả rích bên ngoài. Trò đạp bong bóng của nhau rất vui nhộn và sống động khi những người tham gia, lớn có nhỏ có, nhẩy lò cò, cố gắng đạp vỡ bong bóng buộc ở cổ chân trái mỗi người chơi. Hoặc trò kéo dây giữa hai toán tham dự, một bên cố kéo lui, một bên ra sức trì lại, dưới sự cổ võ ồn ào của khán giả.

        Một điều chúng tôi vẫn băn khoăn là tại sao những học sinh tham gia các trò chơi hoặc sinh hoạt tại trại vẫn không chịu nói tiếng Việt, dù đó chỉ là những mệnh lệnh đơn giản mà tiếng Việt không thiếu, ví dụ như Mau lên; Xích qua phải; Từ từ; Đợi một chút, v.v. Chúng tôi tự hỏi nếu không thực tập trong môi trường thuận tiện này thì làm sao dùng quen và nhớ lâu được?

        Chia xẻ nỗi băn khoăn này với chúng tôi, ông đại điện PHHS có lần nói, dù ông rất hãnh diện với thành quả của nhà trường, nhưng ông cũng không khỏi quan ngại khi tự hỏi không biết những thành quả đó có bền vững, để con người Việt và văn hoá Việt khỏi bị chết chìm trong ngôn ngữ và lối sống Anh Pháp xứ người! Vì vậy ông nhớ ông đã gởi thiệp cuối năm cho ông chủ tịch HĐQT của Trung tâm, trong đó có câu, “Chúng tôi rất cảm phục nỗ lực của quí anh chị trong Ban Giám Hiệu nhà trường, nhưng chúng tôi có cảm tưởng như quí anh chị đang chống chỏi bơi ngược dòng St. Laurent băng giá trong mùa đông lạnh lẽo lê thê của Canada mà mức đến thì xa tít hầu như không hiện hữu!”

        Sau hai tiếng đồng hồ ăn trưa, toàn thể trại viên lại tập họp dự lễ bế mạc. Lúc này trời đã hết mưa, nhưng bầu trời đầy mây xám không hứa hẹn có ánh mặt trời. Trong lễ này ông chủ tịch HĐQT của Trung Tâm đánh giá là hai ngày trại thành công, dù bị trễ nãi lúc ban đầu và bị mưa ngày hôm sau. Có được sự thành công đó, theo ông, là nhờ có sự tiếp tay của rất nhiều người từ phía nhà trường cũng như từ phía PHHS. Tuy nhiên, ông nêu đích danh bà Trưởng BTC và ông phó để hội trường vỗ tay tán thưởng.

        Ông cũng nêu một sự cố mà lẽ ra không nên có trong trại này. Nhân đây chúng tôi xin nhắn gởi người liên can, nếu may ra người ấy đọc được những dòng chữ này.

“Chúng ta đang sống trên một đất nước tự do, dân chủ, văn minh nhất nhì trên thế gìới. Ở đây anh/chị có quyền phát biểu ý kiến chống đối hay ủng hộ, dù tốt đẹp hay xấu xa, một cách công khai, bằng lời nói, chữ viết hay các phương tiện truyền thông, nhằm vào bất cứ một tổ chức hay cá nhân nào, mà không bị luật pháp xét xử hay dư luận phê phán—nếu những ý kiến đó hợp lý, và nhất là có căn cứ. Anh/chị đâu có ở Việt Nam mà sợ bị tù mỗi khi có ý kiến khác! Vậy thì tại sao anh/chị lại phải bày tỏ ý kiến trên tường của một chỗ tù túng, tối tăm, và thối tha, mà vi-xi gọi là nhà xí? Mặc dù ở xứ này nơi đó sạch sẽ, đủ sáng, không mùi, không ruồi, nhưng ít ai trong chúng ta chịu ở đó lâu sau khi đã trút được bầu tâm sự! Ngoài ra, tại sao anh/chị lại phải dùng tiếng Anh, trong khi những người có trách nhiệm tổ chức đều là người Việt, nói, đọc và viết tiếng mẹ đẻ thông thạo? Hay là anh/chị qua đây đã lâu, quên mất cái gốc da vàng mũi tẹt của mình rồi? Chúng tôi chỉ cầu mong lần sau anh/chị can đảm cho biết ý kiến công khai trước tập thể để chúng ta cùng nhau đi tìm giải pháp thoả đáng.”

        Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng chỗ này là vì sự cố này suýt nữa làm BTC phải đóng phạt 100 đôcho ban quản lý trại—chúng ta phạm tội làm dơ tường cầu tiêu! May thay, trong khi ông chủ tịch Trung Tâm đang thông báo cùng cử toạ về vụ này tại hội trường thì bà trưởng BTC và mấy PHHS cong lưng ra sức cọ rửa những chữ nguệch ngoạc trên tường của một nhà cầu tại dẫy dành cho phái nam. Nhờ vậy BTC khỏi đóng phạt.

        Sau khi dọn dẹp vệ sinh toàn trại, mọi người lên xe trở về Montreal lúc 15 giờ. Đoàn xe về đến chỗ xuất phát lúc gần 5 giờ chiều, trong ánh nắng chiều nhẹ nhàng mát mẻ, dưới bầu trời nhiều mây mưa tản mát.Ω

                                                                                           It is much easier to be critical than to be correct.

                                                                                                                                                Benjamin Disraeli

9. TÔI ĂN BỮA CƠM XÃ HỘI

(bài của một bạn học cũ)

 [Nhắn tin: Anh T. T. thân mến: Anh có trí nhớ tốt thật! Chúng ta chỉ học chung có một niên học mà anh vẫn nhận ra tôi, gọi cả tên cúng cơm của tôi, sau hơn 40 năm với biết bao thay đổi. Những chi tiết anh đưa ra về lớp 1B6 của chúng ta ở CVA niên khoá 59-60 làm tôi nhớ lại thời gian đó ngay. Tôi rất tiếc là không nhớ rõ khuôn mặt bạn cùng lớp nào, có lẽ vì tôi có mặc cảm học hành kém, không dám chơi thân với ai. Năm đó tôi lại thi rớt, thành thử không liên lạc với ai, và sau đó mỗi người một ngả, không nhớ tới ai nữa. Thú thật, hôm anh chận tôi lại ở trạm xe điện ngầm Lionel Groulx tôi hơi ngỡ ngàng, tưởng anh nhìn lầm. Qua ít phút trao đổi gợi lại trí nhớ cho tôi, anh còn cho biết anh nhận ra tôi ngay hôm ăn bữa cơm xã hội do Trung Tâm Hông Đức khoản đãi, khi tôi lăng xăng tiếp tay phục vụ các anh. Tôi nhớ hình như anh là thực khách Á Châu duy nhất bữa đó, phải không? Khi tôi tỏ ý muốn biết cảm nghĩ của anh về bữa cơm đó, anh đưa tôi mấy tờ giấy chữ viết tay, bảo về nhà hãy đọc. Tôi không ngờ cuộc đời của anh lại có bước ngoặt oái oăm như thế! Nhận thấy có thể có nhiều người khác cũng muốn đọc bài này, tôi mạn phép anh đánh máy lại, sửa chữa lại đôi chút và đưa đăng báo. Nếu tình cờ anh có đọc được bài này trên báo chí, anh cứ nghĩ rằng bài của anh đã được một số đồng hương chia xẻ ghi nhận, và như vậy, tôi hy vọng, anh có được đôi ba phút vui vui trong lòng Tôi tôn trọng ý định của anh khi không cho tôi địa chỉ hay số điện thoại để liên lạc lại (mà anh cho biết là anh không có!), cũng như không ghi lại những chi tiết đó về tôi. Dù sao, tôi sẽ nhớ luôn nhớ tới anh và thân chúc anh luôn mạnh khoẻ. Cầu xin thời gian giúp anh nguôi ngoai, và yêu đời trở lại. Bạn học cũ của anh, Cả Ngố họ Trịnh]

* * *

           Người thiếu phụ trẻ ra mở cửa, và rất kinh ngạc, linh tính chuyện không hay, khi thấy hai sĩ quan quân phục đại lễ, nón kết cầm tay áp ngực, nét mặt rất nghiêm nghị. Nàng hỏi ngay, giọng đầy lo âu, quên cả xưng hô chào hỏi thông lệ:

           “Nhà tôi vẫn khoẻ?”

           Một sĩ quan đáp rất lễ phép, giọng không dấu nổi vẻ ái ngại ngập ngừng:

           “Thưa bà, chúng tôi thật…rất…buồn….”

           “Anh ấy…chết rồi, phải không?”

           “Thưa bà, vâng!”

           Câu trả lời chỉ có 3 chữ cụt lủn xác nhận sự thật phũ phàng làm cảnh tượng trước mắt nàng bỗng nhiên sụp đổ và nhoà đi...

        Có lẽ người dân Gia-nã-đại không ai không biết đến mẩu đối thoại ngắn này, bởi vì nó được các phương tiện truyền thông đại chúng loan đi rộng rãi mấy ngày liền. Đó là tai nạn “quân ta bắn quân mình,” tại A-phú-hãn hồi tháng 4-2002 vừa qua, làm thiệt mạng 4 binh sĩ Gia-nã-đại. Một trong số tử sĩ đó là người chồng hạ sĩ của thiếu phụ nói trên.

x x x

        Vừa ra khỏi cửa phi trường Mirabel, tôi gọi xe tắc-xi đi về một địa chỉ trên đường O’Brien, quận St.Laurent, thành phố Montreal. Tôi muốn cho vợ tôi một ngạc nhiên bất ngờ nên không thông báo cho nàng ngày giờ tôi rời Việt Nam để sang sum họp với mẹ con nàng sau bao nhiêu năm xa cách.

        Đứng trước căn nhà biệt lập khá đẹp, chung quanh vườn cỏ cây cối tươi tốt, tôi hồi hộp quá, phải hít thở mấy hơi dài để lấy lại bình tĩnh trước khi bước đến cửa bấm chuông. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi ra mở cửa là một người đàn ông tôi chưa hề gặp mặt hay nghe nói tới. Tuy vậy, tôi cũng ngập ngừng hỏi:

        “Xin lỗi... ông, à...anh, đây có phải là nhà của bà... Nông Thị Sang Ngang không ạ?”

           Ông ta trả lời, sau mấy giây nhìn tôi từ đầu đến chân, sang đến cái va-li tôi để dưới chân:

        “A, đúng rồi. Nhưng nhà tôi không có nhà. Nàng đi đón con ở trường học chưa về. Mà...anh ...ông là ai? Cần gặp nàng có chuyện chi không?”

        “Dạ, à, ...tôi..., à mà...thôi. Nhờ ông nhắn lại...bà nhà là có người tên Nguyễn Văn Thất Thế mới từ Việt Nam qua tới thăm. Xin chào ông!”

        Nói xong tôi rời khỏi đó ngay, đi như chạy. Chân trời hy vọng và háo hức của tôi khoảnh khắc tan biến, và trước mắt là cảnh đổ vỡ hoang tàn và một hố sâu hoắm đen ngòm!

* * *

        Chân trời của tôi cũng như của thiếu phụ nói trên đều sụp đổ. Ngay lúc nhận tin sét đánh, chúng tôi có thể cảm nhận đau đớn với mức độ như nhau, song ảnh hưởng của nó tới cuộc đời chúng tôi có lẽ không giống nhau. Bởi vì đối tượng của nàng thì đã mất; người yêu của tôi thì vẫn sờ sờ trước mặt!

        Trong những năm tháng tiếp theo đó, không biết bao nhiêu biến cố sự việc, tựa như “chuyện dài nhân dân tự vệ” trước kia, đã ùn ùn ào tới xô đẩy tôi trở thành một thứ dân bụi đời, ở nhà trọ thí và ăn cơm tây...chùa, tại cái xứ được gọi là “đất lạnh tình nồng” này!

        Hôm nay thứ bẩy 5-4-2002. Thời tiết thật đẹp cho một ngày cuối tuần—ánh nắng chan hoà, bầu trời xanh lơ. Tuy đã sang tháng mùa xuân, nhiệt độ vẫn còn thấp như ở mùa đông. Hôm nay lại hơi có gió nên ra đường thiên hạ vẫn phải mặc áo ấm.

        Trạm tiếp nhận Acceuil Bonneau, số 427 đường De la Commune Đông, chạy dọc theo bờ một nhánh sông St.Laurent, thuộc khu phố cổ của thành phố Montreal, luôn luôn đón nhận đám dân không nhà chúng tôi với đôi tay rộng mở. Hôm nay trạm khoản đãi chúng tôi một bữa trưa đặc biệt—bữa cơm xã hội mà phần chính là các món ăn Việt Nam.

        Về bữa cơm đặc biệt này bọn chúng tôi đã kháo nhau cả tuần lễ trước kể từ khi biết tin. Đặc biệt vì nó do một tổ chức Việt Nam đài thọ khoản đãi. Tôi không rõ mục đích cũng như tôn chỉ của tổ chức này, song danh xưng của nó làm cho người ta nghĩ ngay đến cái gì thanh cao đẹp đẽ, nặng về giá trị tinh thần—Trung Tâm Văn Hoá Giáo Dục HỒNG ĐỨC. Đối với đa số chúng tôi là người bản xứ hay di dân vô hình (ám chỉ da trắng!), đây chẳng qua là một hội đoàn gì đó của đám di dân hữu hình Việt Nam (ám chỉ da màu!) mới qua từ sau 75. Nhưng đối với tôi đó nhất định phải chứa một thứ trường học truyền bá cái gì có tính cách truyền thống dân tộc Việt, và như vậy thì nhất định phải có thầy cô giáo, phụ huynh và học sinh tham dự sửa soạn bữa ăn phát chẩn này.

        Thực ra đây không phải là lần đầu tiên Trung Tâm này khoản đãi chúng tôi. Tôi không nhớ rõ, song hình như lần đầu vào năm ngoái cũng khoảng thời gian này. Biến cố khác thường này tôi có biết, nhưng thú thật tôi không đủ can đảm đến ăn, để phải đối diện với những đồng bào của tôi, và rất có thể có người quen biết mặt! Đối với người Việt bình thường, tình cảnh phải bị gậy xin ănlà một điều hết sức tủi hổ. Tôi đã từng là một sĩ quan trước 75, chẳng lẽ không có tí tự ái nào? Các cụ ta thường nói “Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay!” là vậy.

        Năm nay tôi đến chẳng những vì lực thôi thúc của cái thèm muốn ăn cơm Việt Nam hợp khẩu thay bánh mì Gia-nã-đại (Canada) vô vị mà còn vì sự giục giã của ý tưởng được gặp đồng loại trong đó nhất định phải có học sinh tuổi con tôi, và đặc biệt được nghe tiếng Việt! Hơn nữa, những năm tháng chung sống với đám người xăng me dông cho tôi bớt tự ái đi nhiều, bởi vì đối với họ, xã hội phải có trách nhiệm đối với họ là những người vì nhiều lý do phải chọn cuộc sống du thử du thực—họ cũng là con người cần phải được đối xử xứng đáng! Nhưng riêng tôi, tôi vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận lối suy nghĩ đó, vì vậy tôi sẽ cố gắng không làm gì để lộ căn cước thực sự của mình trước đám người Việt hôm nay!

        Bọn chúng tôi ra vào Trạm bằng cửa hông ăn thông ra đường Bonneau là con đường nhỏ giới hạn tòa nhà chứa Trạm, phía bên phải. Giờ giấc mở cửa đóng cửa có ghi rõ ràng trên bảng gỗ chữ khắc đen gắn trên tường bên ngoài. Cửa này dẫn đến phòng chờ đợi trên tầng một là nơi chúng tôi chờ để được hưởng những dịch vụ mà Trạm cung cấp, trong đó chính yếu là về thực phẩm và quần áo.

        Từ phòng chờ chúng tôi xuống phòng ăn ở tầng trệt bằng một cầu thang rộng, khoảng 20 bậc, được chia đôi bằng một hàng tay vịn ống kim loại. Đây cũng chính là lối chúng tôi ra vào phòng ăn—một nửa làm lối vào, một nửa lối ra.

        Phòng ăn khá rộng, ít nhất mỗi bề cũng phải hơn 10 mét. Cạnh bên trái cầu thang có một lối đi rộng ăn thông với nhà bếp. Kế đó là một lối đi nhỏ hơn, dẫn ra phòng phía sau, và cuối cùng là cửa vào một phòng nhỏ, có lẽ là phòng làm việc của Bà Sơ Quản Lý phòng ăn, vì qua cửa thường để ngỏ người ta thấy bàn làm việc với giấy tờ trên bàn và trên tường.

        Bề đối diện với cầu thang nằm phía đường De la Commune toàn là cửa sổ kính có màn che, hầu như không bao giờ kéo lên để có thể thấy sinh hoạt ngoài đường. Tôi nghĩ như vậy cũng tốt, bởi vì đám nhếch nhác chúng tôi bên trong có lẽ chẳng muốn thấy thiên hạ tươm tất bên ngoài, và họ chắc cũng chẳng ưa nhìn bọn chúng tôi! Thường thường người có kẻ khôngchẳng bao giờ có thể thích nhau được! Thật ra thì “Người có làm khổ người không có” nhiều hơn! Tôi đã đọc được đâu đó ý này, nhưng không nhớ của ai.

        Cạnh bên phải có một cửa ăn thông với cửa ra vào chính của Trạm, mở ra đưòng De la Commune, với tấm bảng gỗ nhỏ đề “Accueil Bonneau” bên trên và con số 427 bằng đồng đen gắn bên cạnh. Hai cửa này có lẽ chỉ dành cho khách và nhân viên.

        Cạnh cùng phía với cầu thang còn có một cửa lớn hai cánh đưa vào một phòng để cất các bàn xếp và ghế khi không cần dùng đến. Ngay góc cạnh này và cạnh phải là lối đi vào hai phòng vệ sinh nam nữ riêng biệt rất sạch sẽ và đầy đủ sà-phòng khăn giấy.

        Thường thường phòng ăn có sáu đến tám dẫy bàn dài có ghế ngồi sát nhau hai bên, kê song song với hướng cầu thang lên xuống, chừa lối đi lớn ở giữa. Lối đi giữa các dẫy bàn cũng đủ rộng để thực khách ra vào thoải mái. Với cách sắp xếp như vậy phòng có thể chứa cả trăm người cùng một lúc.

        Hôm nay xuống đến phòng ăn chúng tôi thấy ngay một biểu ngữ giăng ngang hai cột chính giữa phòng. Trên nền xanh hy vọng trẻ trung là hai hàng chữ trắng trong sạch chân phương “Trung Tâm Văn Hoá Giáo Dục HỒNG ĐỨC.” Đối với tôi nó biểu hiện cái gì thân thương gần gũi mà những bạn cùng cảnh ngộ nhưng khác màu da không thể nào hiểu được. Nó cũng không khỏi gợi lên trong tôi một thứ mặc cảm tội lỗi tự ti xuất phát từ cuộc sống không mấy tốt đẹp của mình hiện tại, một cuộc sống không thể không mang lại tiếng xấu cho cộng đồng người Việt mà tôi, một thành viên, không thể nào chối bỏ dù thâm tâm thực sự có muốn chăng nữa.

        Sau khi đưa phiếu kiểm soát cho một em học sinh đứng ở chân bậc thang, chúng tôi được mấy người phụ trách, chắc là phụ huynh hay thầy cô, hướng dẫn ra phía quầy nhận thức ăn. Trước hết chúng tôi được trao mỗi người một khay nhựa trên đó đã có sẵn muỗng nĩa nhựa, ly mốp, và khăn giấy. Vừa cầm khay trên tay là chúng tôi nhận được ngay phần ăn trên đĩa giấy gồm một ít cơm trắng, và một đùi gà quay.

        Tiếp theo, chúng tôi đi ngang trước một cái bàn dài kê ngay đó, bên trên bày sẵn những khay thức ăn phụ, đằng sau có các em học sinh ăn mặc tươm tất, mặt mũi tươi cười, tay đeo găngvệ sinh cầm dụng cụ phục vụ. Đầu tiên là hai cái chả giò, đến một khoanh chả lụa, rau trộn, dưa leo, cà chua, bánh ngọt ­đô-nất..., và sau cùng là một hay hai quả chuối già.

        Bưng khay thức ăn trên tay, chúng tôi tự chọn chỗ ngồi hay được hướng dẫn đến chỗ trống trong mấy dẫy bàn mô tả bên trên. Khi đã an toạ, chúng tôi lại được các em học sinh mang cà-phê sữa pha sẵn còn nóng rót vào ly tại chỗ!

        Tôi chọn một chỗ ở dẫy cuối trong góc vừa để né những tia mắt quá kỹ, vừa để nhìn cảnh sinh hoạt chung quanh. Khi bắt đầu ăn tôi mới để ý đến các món ăn trên đĩa của mình. Cơm không phải là cơm trắng thuần túy mà có trộn mè (vừng) rang và hành lá xanh dầu mỡ. Miếng thịt gà cũng đã được cắt bỏ phần mỡ, ướp gia vị trước khi nướng chín tới trông gọn ghẽ không như ở những nơi bán sẵn. Mấy cái chả giò cũng vậy, từ hình dáng thon nhỏ dài dài đến cách cuộn bánh tráng, trông rất khác ở cửa hiệu. Rõ ràng những món này đã được những bàn tay ưu ái của thầy cô, phụ huynh hay học sinh làm tại nhà.

        Ôi, đẹp thay những bàn tay đầy lòng nhân đạo! Chủ nhân của những bàn tay ấy hẳn phải có tấm lòng rộng lượng vị tha, biết nghĩ tới người kém may mắn hơn mình mặt này mặt khác. Đây hẳn phải là những con người tìm thấy niềm vui nơi công việc có tính cách làm nhẹ bớt đôi chút nỗi bất hạnh của đồng loại, bởi vì nếu không thì có lẽ chẳng ai để tâm dến việc “vác ngà voi” làm gì. Niềm vui này chắc đã làm họ quên thời gian, quên mỏi mệt khi phải rang mè, phải cuốn hàng trăm chả giò, phải ướp hay nướng thịt..., và biết bao cái “phải” khác để làm nên bữa cơm xã hội này.

        Riêng đối với tôi, bữa cơm công cộng này có một ý nghĩa khác, mang tính chất cá nhân hơn. Khi ăn cơm nhai trúng những hạt mè rang thơm phức, gặm chiếc đùi gà hợp khẩu, cắn cuốn chả giò dòn ngon, tôi không khỏi nhớ tới thời gian trước đây trong những bữa cơm gia đình vào dịp đặc biệt có những món ăn tương tự. Tôi nhớ bàn tay nhà tôi, cũng như thế đứng cách ngồi và nét mặt của nàng khi sửa soạn nấu nướng cho gia đình nhỏ bé của chúng tôi; tất cả như toát ra một thứ gì âu yếm thương yêu trìu mến lo toan khó tả.... Tiếc rằng bây giờ nhà tôi không còn nữa; chỉ có nhà ai! Nghĩ tới đây tôi cảm thấy tủi thân, và không hiểu sao tự dưng hình ảnh trước mắt nhoà đi, loang loáng như những vũng nước sau cơn mưa dưới ánh đèn đường...

        “Ê, ông bạn, ăn đi chứ. Có chuyện gì vậy?” Người ngồi bên hỏi, bằng tiếng Anh.

        “A,..không biết con gì bay vào mắt...” Tôi nói dối, rồi vội lấy khăn giấy chùi mặt.

            Ngay lúc đó chúng tôi nghe tiếng của Bà Sơ trên loa phóng thanh trong phòng. Chúng tôi im lặng nghe. Tôi chỉ loáng thoáng hiểu rằng Bà cho chúng tôi biết bữa cơm chúng tôi đang dùng do đâu mà ra, trong đó tôi nhận ra có chữ “Đốc-tơ Lai.” Ông này chắc hẳn phải là người từ nãy đến giờ đứng cạnh tường phía mặt đường, quan sát và điều động nhân sự Việt trong phòng. Chúng tôi vỗ tay rào rào, tỏ lòng tán thưởng và tri ân.

        Chúng tôi trở lại ăn uống. Đối với tôi khẩu phần như vậy là vừa, nhưng với những người đồng cảnh ngộ, có lẽ hơi ít. Bằng chứng là có một số, không nhiều lắm, mạnh bạo đi một tua nữa và cũng được hài lòng, dù làm như vậy là trái với qui định. Ai muốn ăn thêm lần nữa đúng lý phải đi ra khỏi phòng ăn, rồi trở lại xin phiếu và đi vào lại.

        Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy có một số người không ăn hết khẩu phần, mà chừa lại cơm và giò lụa—có lẽ hai món này họ ăn không quen. Một số khác không ăn tất cả những món được cấp phát mà bỏ những thứ chưa ăn vào túi mang về để dành! Đây hẳn là những người đã từng bị đói và biết phòng xa—trong số đó có tôi, một người đã từng hoa mắt vì đói!

        Là người đã từng “mài đũng quần” trong phòng ăn này nhiều lần, tôi có dịp để ý đến thành phần những người thường lui tới chốn này. Nói chung, những người như chúng tôi thường “mát dây,” tức là có một vài dây thần kinh đâu đó trong đầu chạm nhau, khiến cách ăn nói, lối ứng xử, loại cử chỉ,..., không giống ai! Nói trắng ra, chúng tôi là những người mắc bệnh tâm thần, tuy ở những mức độ nặng nhẹ khác nhau, bởi vì nếu không thì chắc chúng tôi đã không trở thành dân bụi đời, vô gia cư. Sự kiện này biểu hiện rõ trong cách ăn mặc lôi thôi, và kém vệ sinh, mặc dù quần áo, phương tiện vệ sinh giặt giũ tắm giặt đều được Trạm và nhiều tổ chức từ thiện khác cung cấp miễn phí.

        Tuy vậy, đó đây người ta vẫn thấy có người ăn mặc rất tươm tất, với đầy đủ phụ tùng theo người, trông không ra vẻ gì là dân không nhà. Chẳng hạn như hôm nay tôi thấy một bà đầm, khoảng dưới 40, mặc bộ com-lê nữ màu mỡ gà thẳng nếp sạch sẽ, ôm sát thân hình trông còn khá hấp dẫn, vai đeo một túi xách dây đeo nhỏ và dài, hợp thời trang. Cách ăn mặc này khiến bà trông nổi bật trong đám luộm thuộm sậm màu chúng tôi. Hoặc một ông tây khác mặc sơ-mi dài tay xanh nhạt như mới lấy ở hiệu giặt ra, áo len cụt tay xám tro có hoa văn trông rất mỹ thuật và quần din hiệu Guess vừa đẹp, vừa ngồi xuống là đặt cái điện thoại di động bên cạnh đĩa cơm! Thời gian gần đây người ta thấy nhiều người ăn mặc tươm tất hơn đến ăn tại Trạm. Theo báo chí đây có thể là những người có, mới cháy túi ở ca-si-nô hay khách du lịch tây ba-lô chíp.

        Một điểm nữa tôi thấy là đa số thân chủ của Trạm thuộc giống da trắng; da đen và da màu rất ít; gốc Đông-Nam-Á càng ít hơn; Việt Nam có lẽ chỉ có một mình tôi! Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ văn hoá Á Đông, nhất là của Việt Nam, xem việc phải ăn bám xã hội rất xấu. Phải bị gậy ra đường xin ăn là một chuyện cực chẳng đã; người Việt ít ai đi ăn cơm phát chẩn vì tự ý thích.

        Ngay cả công việc được trả lương đàng hoàng, lắm khi lương còn cao hơn cả của kỹ sư mới ra trường, mà còn bị khinh miệt, nói gì đến đi ăn xin! Tôi có biết một cậu sinh viên mùa hè xin được một chân làm vệ sinh ở trạm xe điện ngầm. Cậu cho biết khi vào làm cậu xin làm việc ở các trạm xa, ít người Việt sử dụng đi tới—lý do: cậu sợ lỡ gặp bạn bè thì ê mặt. Công việc? Lượm rác rến hành khách bỏ trên sàn trạm, đổ mấy thùng rác gắn trên tường, đẩy xe quét lau nhà tự động, và một vài việc đại loại như thế. Lương giờ? Trên 17 đô! (Giờ phụ trội vào cuối tuần, ngày lễ, lương giờ gấp rưỡi, gấp đôi!) Nói như thế để chứng tỏ rằng người Việt chúng ta hay có tính sĩ diện hão, mà từ chối những công việc tay chân tầm thường.

        Khi ăn xong, chúng tôi bưng khay hướng ra cầu thang nơi chúng tôi vào lúc nãy. Tại đây có một thùng rác để chúng tôi bỏ đĩa giấy muỗng nĩa nhựa và thức ăn thừa, trước khi trao khay nhựa cho nhân viên qua khung cửa vào phòng nhỏ, nơi đây có nhóm thiện nguyện phụ trách rửa ráy. Nhìn vào thùng rác tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ, xót xa trong lòng, khi thấy khá nhiều cơm và rất nhiều khoanh chả lụa lẫn lộn trong mớ đồ bỏ đi.

        Tôi nghĩ ngay đến thời gian tôi “học tập cải tạo” ở Trảng Lớn, khoảng cuối năm 1975. Một hôm đói quá, đói hoa cả mắt, chung quanh không có cái gì ăn được ngoài sỏi đá sắt thép. Nhìn sang cái nhà nhỏ của bọn bộ đội,chúng tôi thấy một ít cơm thừa phơi đã rớt xuống đất và lên mốc vàng xanh. Chúng tôi lẻn sang, hốt cơm lên, đem đãi cho sạch đất cát, rồi bỏ chút muối nấu thành cháo và mấy thằng ngồi xì xụp húp với nhau khen ngon rối rít!

        Trước khi bước lên mấy bậc thang dẫn ra ngoài, chúng tôi còn được lựa chọn một số trái cây và bánh mì đựng trong những thùng nhựa vuông vức. Tôi lấy một ít trái táo, và một gói bánh mì, bỏ vào túi, rồi lủi thủi bước lên cầu thang đi ra ngoài, không nói tiếng nào, mặc dù mấy phụ huynh và các em học sinh có chào từ biệt bằng tiếng Pháp, trong lòng nặng trĩu sự biết ơn và mặc cảm. Thật là “được ăn, được nói mà không dám, còn được gói mang về!”

        Mấy hôm sau, vào thứ ba 7 tháng 5, Trạm tổ chức sinh nhật thứ 125. Đối với chúng tôi hôm đó phải là một ngày hội lớn, bởi vì thức ăn rất đa dạng và phong phú, và chúng tôi được số thiện nguyện, từ học sinh sinh viên đến những ông bà chủ hiệu chủ hãng lớn và viên chức nhà nước, phục vụ chiều chuộng hết mình. Nghe nói có cả bà phó thống đốc tỉnh bang Quebec tham gia trong ca đoàn hát giúp vui, qua những bản dân ca phổ thông Pháp đầy mơ mộng. Tôi không có mặt, không biết hôm đó tôi làm gì, đi đâu mà quên khuấy đi mất!

        Theo tài liệu phổ biến nhân dịp này cũng như trước đó, Trạm Tiếp Nhận Bonneau, do một số dì phước giàu lòng nhân đạo mở ra và quản lý, có mặt từ ngày 7-5-1877, để làm một chỗ trú chân cho đám không nhà của thành phố. Thời gian đầu Trạm dùng những trại lính cũ bỏ không làm trụ sở hoạt động. Mãi đến năm 1904 khi dời về địa chỉ hiện tại trên đường De la Commune bờ sông, Trạm đổi trọng tâm phục vụ, nhằm vào việc cung cấp trợ giúp tinh thần vật chất khẩn cấp cho thành phần nói trên, trong đó có cả thực phẩm và quần áo nữa.

        Danh xưng hiện tại xuất phát từ tên của Dì phước Rose de Lima Bonneau là người trông nom Trạm từ năm 1910 cho đến năm Dì qua đời 1934. Trong thời gian hoạt động, số bữa ăn phục vụ lên xuống tuỳ tình hình kinh tế của thành phố, khoảng trên dưới 500 phần mỗi ngày. Nhưng kể từ đầu thập niên 90, con số bỗng tăng lên đột ngột, thành khoảng 750/ngày. Tổng số cả năm, ví dụ như năm 2001, là 279.359 phần ăn sáng chiều. Bữa sáng, phục vụ nóng, thường là cơm, rau, mì sợi, thịt xay hoặc súp đậu; chiều săng-guích, trái cây và các loại bánh.

           Nguồn thực phẩm thường do những nhà hàng búp-phêvà siêu thị tặng, ví dụ như La Stanze, Vichy, Métro, Maxi, hay chợ rau quả Jean Talon hay Atwater. Đặc biệt, như trong bữa tiệc sinh nhật nêu trên, công ty nhà hàng St-Hubert tặng trên 900 phần ăn, mỗi phân nửa con gà quay, hãng Pepsi tặng thức uống, v.v., với sự đóng góp của nhiều hãng xưởng lớn khác.

        Giúp việc quản lý Trạm và phục vụ số người kém may mắn thường lui tới đây là một đội nhân viên thường trực gồm khoảng 30 người, thường là dân chuyên nghiệp về tâm lý, thần kinh, y tế, và 230 thiện nguyện luân phiên. Theo Dì Thérese Frigon, Tổng Giám Đốc của Trạm trong 18 năm qua, một buổi liên hoan sẽ được tổ chức trong tháng 8 tới đây dành riêng cho số người này.

        Tôi cảm phục sự giàu lòng bác ái của những nhà mạnh thường quân thành phố cũng như của Quebec và Canada. Họ là những người sẵn lòng giúp của giúp công để duy trì một cơ sở nhân đạo như Trạm Tiếp Nhận Bonneau. Ví dụ như hôm 9-6-1998, một nồi áp suất loại lớn trong bếp nổ tung, gây thiệt mạng một Dì phước và 2 thiện nguyện, làm bị thương mười mấy người, và đem hư hại lớn đến nhà bếp và phòng ốc liên hệ. Nhưng chỉ trong vòng khoảng 4 tháng sau, dưới sự giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâm, Trạm đã hoạt động lại với nhà bếp, phòng ăn, đầy đủ trang thiết bị cần thiết tối tân, và bên ngoài trông như một tòa nhà mới xây xong.

        Sống trong một xứ giàu có, và hầu như luôn luôn ổn định mọi mặt kể từ khi lập quốc như Canada, thật là sung sướng. Chúng tôi, những người tự coi là kém may mắn, chỉ biết hưởng thụ, cụ thể là qua việc lui tới Trạm Bonneau hay những nơi tiếp nhận nhân đạo khác, để ăn uống hay nhờ vả. Một số trong chúng tôi trước đây lúc còn tỉnhcó thể đã đóng góp ít nhiều, qua dạng thuế má, bây giờ họ có ăn bám hay làm gánh nặng cho xã hội, chắc thâm tâm họ cũng không mấy khó chịu. Song một số khác còn đang , trong đó có tôi, hình như chưa đóng góp gì mà đã hưởng thụ những dịch vụ xã hội miễn phí, thử hỏi làm sao chúng tôi, nếu còn đôi chút tỉnh táo chưa điên khùng, không cảm thấy lương tâm cắn rỉavà mặc cảm tội lỗi?

        Với lương tâm mặc cảm như vậy, tôi luôn luôn biết ơn xã hội này nói chung và tất cả những mạnh thường quân nói riêng, đã cưu mang và giúp tôi vui sống đến ngày hôm nay. Tôi hy vọng rằng thời gian sẽ giúp tôi bình tĩnh lại, cố gắng tìm công ăn việc làm để tự nuôi sống, và rồi đóng góp bằng cách nào đó, chẳng hạn, xin làm việc xã hội thiện nguyện, để trả lại phần nào những gì tôi đã hưởng thụ trước kia.

         Và tất nhiên tôi trân trọng cám ơn Trung Tâm Văn Hoá Giáo Dục Hồng Đức.Ω

10. TAI NẠN I-MÊU

(Tác giả đạo ý của một thân hữu)

        Anh Mít vừa mới cưới vợ. Dù ăn ở với nhau chưa bao lâu, chỉ mới bắt đầu quen hơi, gần nhau thì muốn...ấy, xa nhau thì nhớ...mùi, nhưng anh vẫn quyết chí xa người yêu dấu, lên đường đi chui “tìm đường cứu…dợ,” bởi vì anh đã nếm đủ cái ưu việtcủa “thiên đường cộng sản” sau bao năm chung sống. Ở đó vợ chồng anh làm đầu tắt mặt tối, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm,” mà vẫn không đủ ăn.

           May mắn thay, anh chỉ đi một lần là trót lọt. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân khác, anh phải tạm trú tại một hòn đảo ở Mã Lai trong khi chờ đợi một nước thứ ba bảo lãnh cho định cư. Cái may nữa là vì xưa kia ba anh có phục vụ trong chính quyền trước 75 nên anh được phái đoàn Hoa Kỳ nhận cho nhập cư ngay sau khi phỏng vấn anh.

           Trong những ngày chờ đợi trên đảo, sau bữa cơm chiều, anh thường ra ngồi bờ biển nhìn trăng sao, “trông về quê mẹ ruột đau chín chiều,” nhất là tưởng nhớ người vợ trẻ, và tưởng tượng thèm khát những lúc bên nhau trong những ngày anh chờ lên đường đi chui. Có những hôm trời gió lạnh, nhưng anh vẫn cứ ngồi hoặc lang thang bờ biển mãi tới khuya mới chịu về lều đi ngủ.

           Thế rồi cuối cùng anh lên máy bay đi Mỹ, và như phần lớn dân tị nạn khác, anh xin định cư ở vùng Cali nắng ấm. Sau những năm tháng cực nhọc thuở ban đầu, anh bây giờ coi như an cư lạc nghiệp và lo ngay đến việc bảo lãnh vợ hiền. Để chuẩn bị cho bà xã hội nhập xã hội tân tiến bên này mau lẹ, anh thường gởi tiền về bảo người yêu tìm chỗ ở đàng hoàng hơn, đồng thời đi học thêm Anh ngữ cũng như sử dụng máy điện toán cá nhân.

        Không hiểu sao độ gần đây anh hay ho, và mỗi khi trái gió trở trời, anh cảm thấy như muốn ngộp thở. “Có lẽ bệnh suyễn của mình xưa kia nay tái phát?” anh nghĩ bụng, và nhớ lại những buổi chiều gió lạnh ngồi ngoài bãi biển ở đảo. “Chắc là tại mình để nhiễm lạnh quá lâu! Lại ăn uống thiếu thốn trong thời gian đó.”

        Vốn không tin mấy Tây y trong việc chữa trị bệnh này, anh đến một thầy lang ta do bạn bè giới thiệu, xem mạch hốt thuốc. Ông thầy này nổi tiếng chữa khỏi nhiều bệnh tưởng là nan y đối với Tây y. Toa thuốc ổng cho anh vẻn vẹn có một vị duy nhất mà anh chắc rằng tại xứ Mỹ văn minh này khó có thể kiếm cho ra được, nhất là khi chung quanh chỉ thấy toàn là xe cộ hàng quán, trên là trời dưới là xi-măng hay nhựa đường.

        Thế là anh i-mêu cho người yêu. Tiếng Anh của vợ anh chưa nhiều, nên anh viết tiếng Việt; nhưng vì máy của anh không có sóp-goetiếng Việt, anh viết tiếng Việt không dấu. Thơ của anh ngắn gọn như sau:

        Em Xoai ngot ngao voi doi moi do tham cua anh: Nhu em biet do, can benh suyen quai ac cua anh lai tai dien, lam anh da muon chet tuoi vi nho em lai muon tu tu vi no hanh! May thay co nguoi gioi thieu mot thay lang ta noi tieng. Toa thuoc chi co mot vi duy nhat ma ong thay bao dam uong mot lan se het binh. Do la lay long lon rung dot thanh tro hoa nuoc tra uong mot lan la khoi. Ngat mot noi la tai dat My van minh nay, anh lam sao tim cho ra long lon rung, du anh da tung thay nhieu lon con song nhan? Vi vay nhan thu nay, em co tim long lon rung goi qua cho anh ngay, chi do 50 ca ram thoi. Anh hy vong nho thuoc nay anh se manh khoe va don em trong vong tay chac nich va cung ngac cua anh. Hon em nhieu. Thuong em lam. Mit

        Ngay tối hôm đó tại Saigon, chị Xoài mở máy và thấy thơ của anh. Vì thơ viết tiếng Việt không dấu nên chị cũng phải mất một thời gian mới hiểu hết lời và ý của thơ. Là một người con gái thật thà mộc mạc, chị chỉ nghĩ tới những gì gần gũi thân mật, cho nên sau một hồi nghĩ ngợi chị bỗng cảm thấy ngượng nghịu đỏ mặt. Chị thầm nghĩ, “Không lẽ… Chắc là đúng rồi! Nếu không ảnh đâu có biểu mình gởi qua? May mà chỉ có mình mình đọc thơ này. Mọi khi con em gái mình hay tò mò đứng bên nhìn. Không biết con nhỏ hiểu thế nào khi đọc tên vị thuốc này?”

        Nhưng rồi chị cũng phải ngập ngừng nói lại với mẹ về nội dung cái thơ của chồng, và xin mẹ ý kiến giúp đỡ. Không còn cách nào khác, bà mẹ phải gọi mấy chị em Xoài lại và nói ý muốn của mình. Sau cùng mấy mẹ con “nhất trí” thi hành kế hoạch đã thảo nuận, nhưng giữ kín không cho ai biết, kể cả ông bố trong nhà.

        Ít lâu sau anh Mít nhận được một bưu phẩm to bằng hộp bánh sâm-banh LU của Pháp trước kia. Sau khi bỏ biết bao lớp giấy báo Saigon Giải Phóng bên trong hộp sắt, anh mới thấy ở giữa một hộp giấy cỡ bằng bao diêm Con Chim hồi xưa. Mở hộp này anh thấy một mớ lông hay tóc xoăn xoăn, dài ngắn khác nhau, có xen lẫn đôi ba cái bạc; có cái còn cả phần trăng trắng ở chân như bị nhổ cả gốc. Dưới đáy hộp là một mảnh giấy nhỏ đầy những chữ Việt viết tay có dấu đàng hoàng. Anh lẩm nhẩm đọc:

           Anh Mít yêu dấu có đôi tay ma quỉ của em:

Từ ngày nhận được i-mêu của anh, ngày nào em cũng để ý thu nhặt những lông rụng, mà chờ lông rụng thì lâu lắm mới có đủ số lượng anh cần dùng. Nhưng anh yêu của em ơi, anh đừng lo, bên VN nay thiếu gì thứ đó. Em đã đề nghị mẹ em, chị em, em gái em và chính em, là tất cả đều cạo sạch, rồi gởi hết qua cho anh đó. Em hy vọng là anh chỉ cần dùng một lần, như lời thầy bảo đảm. Còn nếu phải uống thêm một lần nữa, chắc anh phải chờ một thời gian nữa nó mới ra kịp! Anh hãy nghe theo lời thầy lang và uống thuốc này cho mau lành bệnh nhé. Mi anh thật lâu. Nhớ anh nhiều. Xoài.

           Đọc thơ xong, anh Mít chỉ biết kêu trời và lẩm bẩm, “Thật tai hại! Mình đâu cần thứ này. Mình cần lông lợn rừng mà! Bỗng nhiên cả nhà thành đồi trọc hết trơn! Chắc mình phải cài đặt sóp-goe viết tiếng Việt vào máy mí được!”(sáu-04)

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Xyz